|
|
Có cần thiết phải
học đánh vần khi dạy tiếng Việt không? Trần Tư B́nh |
|
Bài
tham luận (Đọc tại
Hội Nghị Quốc Tế về Tiếng Việt:
Lịch sử và Việc Giảng dạy tại Các
Trường Việt ngữ, trường Trung học và
Đại học tại Hải ngoại, do Viện
Việt Học www.viethoc.com ở Hoa Kỳ tổ chức
vào tháng 7 năm 2011 ) 1. Tóm lược: Khi học tiếng Anh, tiếng Pháp …,
học sinh người bản xứ cũng như
người nước ngoài không học đánh vần
nên bài tham luận thử nêu một câu hỏi là: Từ
nay về sau, khi dạy tiếng Việt, thật sự
có cần thiết phải dạy đánh vần, như
cách lâu nay vẫn dạy, cho học sinh mẫu giáo không? Bài tham luận đưa ra các lí do
đặt câu hỏi trên và đưa ra quan điểm
của tác giả về vấn đề nêu ra. 2. Bài tham luận: Kính thưa quư vị, Bài tham luận này
xin được gởi đến quư vị và
độc giả một câu hỏi mà chúng tôi thắc
mắc từ lâu. Câu hỏi là: Từ nay về sau, khi
dạy tiếng Việt, thật sự có cần
thiết phải dạy đánh vần, như cách lâu nay
vẫn dạy, cho học sinh mẫu giáo không? Trước khi tŕnh bày quan điểm
riêng về câu hỏi này, tôi xin nêu ra 2 lư do khiến chúng
tôi đặt vấn đề trên: -
Lí
do thứ nhất là từ vài chục năm gần
đây, khi học tiếng Anh, tiếng Pháp …, học sinh
bản xứ lớp mẫu giáo, kể cả
người mới bắt đầu học hai ngôn
ngữ này, đều không học đánh vần.
Người mới bắt đầu học tiếng
Anh, tiếng Pháp chỉ học cách đọc cho đúng
tên các chữ cái A, B, C,… và rồi
học phát âm cho đúng nguyên con chữ. Vậy th́ tại
sao khi dạy tiếng Việt ta vẫn tiếp tục
dạy đánh vần? -
Lí
do thứ hai là nhân đọc được một bài
viết “I Tờ, Tờ i Ti.
Le a La, Me er Mer, La Mer”của
Tiến sĩ Nguyễn Vĩnh-Tráng, trên trang mạng
Việt Thức (www.vietthuc.org > Biên khảo Văn
Học > I
Tờ, Tờ i Ti. Le a La, Me er Mer, La Mer) cho thấy ở Pháp vào các thế kỷ 17, 18,… người Pháp đă học đánh
vần tiếng Pháp, (vd: Le a La, Me e Mer, La Mer). Vậy th́ v́
sao hiện nay phương pháp đánh vần này không c̣n áp
dụng nữa cho người bắt đầu học
tiếng Pháp? Để tiện tham khảo, tôi xin
trích đăng vài đoạn trong bài viết trên. TS.
Nguyễn Vĩnh-Tráng viết như sau: “… Lớn
lên tôi được biết, cách dạy đánh vần
chữ Quốc ngữ trong Hội Truyền bá Chữ
Quốc ngữ là do Giáo sư Hoàng Xuân Hăn đặt ra.
Cách dạy rất hay, độc đáo, giản dị,
đạt hiệu quả rất nhanh, với cách gọi
các vần B, C, D, Đ… bằng Bờ, Cờ, Dờ,
Đờ…; và NG, PH, TH, TR là Ngờ, Phờ, Thờ,
Trờ… Ta có Bờ A Ba dễ dàng hơn Bê A Ba, hay Thờ
Ơ Thơ thay cho Tê Hát Ơ Thơ khó khăn nhiều,
nhất là cho những người lớn tuổi
muốn học chữ Quốc ngữ… … Từ
đó ta có danh xưng “I Tờ” cho cách mới, học
chữ Quốc ngữ, mà chỉ “ba buổi, đă ghép
thành nhiều tiếng với I, T, O, Ô, Ơ”… … Có một
chuyện vui, vào năm 1964, trong dịp lễ Phục Sinh
tôi được một anh bạn Pháp học cùng
lớp dẫn xuống thăm gia đ́nh anh, ở Estaque,
một biên quận của thành phố Marseille (Pháp). Nhà anh
rất đẹp, nằm ngoài thành phố, nh́n ra biển
Địa Trung Hải xanh biếc, mát mẻ, dưới
nắng ấm. Thật là một địa điểm
thần tiên hiếm có. Khi vào tới cổng, tôi “ồ”
lên một tiếng khen ngợi, th́ ông cụ thân sinh
của anh bạn mới nói: “Oui! Le a La, Me er Mer, La Mer!“. Tôi sửng sốt ngạc nhiên vô cùng và
hỏi lại: “Sao? Ông nói Lơ a La, Mơ er Mer, La Mer à?”, và ông cụ trả lời: “Thế th́
sao? Ở đây người ta nói như vậy cả”,
làm tôi ngạc nhiên thêm, nhưng tôi chưa kịp hỏi
thêm chi tiết, th́ anh bạn đă kéo đi cho xem nhà, xem
vườn và cùng nói đến những đề tài
khác. Tuy nhiên tôi không quên chuyện “Lơ a La, Mơ er Mer, La
Mer” đó. Trên
đường cùng anh bạn về lại
trường, tôi có hỏi anh là ở Marseille,
người ta gọi các chữ B, C, D… bằng Bơ,
Xơ, Đơ…, và người ta đánh vần là Bơ
a Ba, Tơ ô (eau) Tô, Batô (Bateau) à? th́ anh
bạn nói không có. Anh nói chữ B th́ đọc là Bê/Bé,
chữ C th́ đọc là Xê/Cé và đánh vần chữ Bal
th́ Bê a enlơ (Bé a elle), Bal. Tôi mới nói là khi ở nhà
anh, tôi có nghe ông cụ anh nói “Le a La, Me er Mer, La Mer”, th́ anh
ta cười và nói là người dân quê ở miền Nam
hay giễu cợt để cười cho vui, chứ
đâu có chuyện đó. Người ta gọi các chữ
B, C, D… bằng Bê/Bé, Xê/Cé, Đê/Dé… cả, và đánh
vần th́ như chữ Bal vừa rồi thôi. Và tôi
cũng đinh ninh như vậy, v́ cho rằng những âm
Bờ, Cờ, Dờ, Đờ… để chỉ các
chữ B, C, D, Đ… chỉ có ở Việt Nam trong
thời kỳ thành lập Hội Truyền bá Chữ
Quốc ngữ và Phong trào B́nh dân Học vụ mà thôi. Thế
rồi, về hưu, mấy chữ “Le a La, Me er Mer, La
Mer” lại ám ảnh tôi. Tôi nghĩ chắc cũng
phải có “đầu dây mối nhợ” ǵ, chứ không
lẽ tự nhiên lại có “Lơ/Le, Mơ/Me”, mặc dù
cũng chỉ là câu nói đùa truyền khẩu ở nông
thôn. Rảnh rỗi, tôi lại lên mạng Internet t́m
kiếm những thứ tiếng xưa của
người miền Nam nước Pháp như Langue d’oc,
Auvergnat, Provençal, cùng những biến thể của
tiếng Occitan, như Nissart, Gavot. Thậm chí, tôi t́m
đến cả tiếng Monégasque, Catalan…, nhưng các
thứ tiếng đó đều gọi các chữ cái B,
C, D…, bằng Bê/Bé, Xê/Cé, Đê/Dé…, hay có trại đi
đôi chút, chứ không gọi bằng Bơ/Be, Xơ/Ce,
Đơ/De… Tôi lại
t́m ngay cả tiếng Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ư
Đại Lợi…, tuy tôi không biết các thứ tiếng
đó, nhưng cũng chỉ thấy và nghe các âm, Bê, Xê,
Đê… hay Bi, Tchi, Đi…, để đọc các chữ
B, C, D… Tôi c̣n
đi xa hơn nữa, là t́m trong những tiếng Ba Lan,
tiếng Nga, v́ cũng may mắn là ông hàng xóm của tôi,
người gốc Ba Lan, có biết đôi chút tiếng
Nga, mà cũng không t́m thấy các âm Bơ, Xơ, Đơ…
cho các chữ B, C, D… Rồi
một hôm, trong việc đi t́m các âm của các chữ
cái trên mạng – mạng Internet thật thần t́nh – t́nh
cờ tôi t́m được cuốn Observations sur
l’orthographe française: suivies d’un exposé historique des Opinions et Systèmes
sur ce sujet depuis 1527 jusqu’à nos jours. (Ambroise Firmin Didot.
Typographie de Ambroise Firmin Didot, Paris, 1867) – OOF. Trong cuốn
đó, ở trang 9, có câu: “Profitant un
peu tard des réflexions de Messieurs de Port-Royal (Arnaud et Lancelot), qui,
dans leur Grammaire, avaient condamné avec raison l’ancienne et vicieuse
épellation: bé, cé, dé, é,
effe, gé, ache, ji, elle, emme, enne, erre, esse, vé, ixe, zedde, l’Académie,
après l’avoir suivie pour les premières lettres dans sa quatrième édition, s’est
ensuite ravisée et l’indique ainsi: fe, ge, he, le, me, ne, re,
se, ve, xe, ze.” (Hàn lâm
Viện, dù hơi chậm, ban đầu đă theo sự
phân tích trong cuốn Ngữ pháp của các ông ở
Trường Port-Royal (Arnaud và Lancelot), mà họ đă
hợp lư chỉ trích cách đánh vần kỳ quặc và
xưa cũ các chữ: bé, cé, dé, é,
effe, gé, ache, ji, elle, emme, enne, erre, esse, vé, ixe, zedde, để
lấy những chữ đầu cho lần ấn
bản lần thứ tư cuốn Tự điển,
đă đổi ư và chỉ định như sau: fe, ge, he, le, me, ne, re,
se, ve, xe, ze). Tôi mừng
hết sức và tôi lại t́m thêm cuốn Grammaire Générale
et raisonnée de Port-Royal. (Arnaud et Lancelot. Seconde Edition. Bossange et
Masson, Paris, 1810) – GRPR. Và trong các trang 264-265, có: “Or, ce qui
rend maintenant cela plus difficile, est que chaque lettre ayant son nom, on
la prononce seul autrement qu’en l’assemblant avec d’autres. Par exemple, si
l’on fait assembler fry, à un enfant, on lui fait prononcer ef, er, y grec;
ce qui le brouille infailliblement, lorsqu’il veut ensuite joindre ces trois
sons ensemble, pour en faire le son de la syllabe fry.” (Thế mà,
chuyện khó là mỗi một chữ cái đều có tên
của chúng, người ta đọc tên của chữ
cái trong khi ráp chữ cái đó với những chữ cái
khác. Ví dụ, nếu muốn một em bé ghép chữ fry,
th́ nói em đọc ef, er, y grec; th́ chắc chắn sẽ
làm rối em, khi em muốn ghép lại cả 3 âm,
để có âm của âm tiết fry.) “Par exemple,
qu’on donnât pour nom à b, ce qu’on prononce dans la dernière syllabe de
tombe; à d celui de la dernière syllabe de ronde; et ainsi des autres qui
n’ont qu’un seul son.” (Thí dụ
như, gọi tên chữ b theo cách đọc âm tiết
cuối của chữ tombe (âm bơ/be), chữ d theo âm
tiết cuối của chữ ronde (âm đơ/de), và,
như thế, cho những chữ khác, khi chúng chỉ có
một âm). (Nghĩa là âm của chữ B là Bơ/Be, âm
của chữ D là Đơ/De.) Như
thế, những đoạn trích trong hai cuốn sách OOF và
GRPR nói trên, cho ta rơ ràng là theo Arnaud và Lanceleot, trong cuốn
Ngữ pháp của họ, th́ không nên đọc các chữ
cái B, C, D… theo tên xưa của chúng là Bê/Bé, Xê/Cé, Đê/Dé…,
mà phải đọc theo Bơ/Be, Xơ/Ce, Đơ/De…,
và cách đánh vần th́ thay cho Bê/Bé a Ba, ta phải nói
Bơ/Be a Ba…, để người học đánh
vần dễ học hơn. V́ cách
đánh vần theo Arnaud và Lancelot đă được
giảng dạy trong một thời kỳ – khoảng
năm 1640 – tại một địa điểm –
trường Port-Royal – nên, tuy không chính thức, nhưng
đă truyền miệng lại cho đời sau, nhất
là ở nông thôn, nơi không có những giáo tŕnh chính
thức. Rồi từ đời này sang đời khác,
những tập quán đó lại bị phai mờ bởi
sự đại chúng hóa nền giáo dục khắp
cả nước, và những âm Bơ/Be, Xơ/Ce,
Đơ/De… để chỉ các chữ cái B, C, D… đă
bị đại chúng quên hẳn đi. Chúng chỉ c̣n
trong một vài chữ, và cũng là để làm chuyện
khôi hài, mua vui, như trong nhóm chữ “Le a La, Me er Mer, La Mer”
mà ông cụ của anh bạn tôi đọc ra để
đùa vui với tôi. Vậy
ở Pháp, vào khoảng năm 1650, và có thể, ở các
nước khác, cũng đă có cách đánh vần theo cách
gọi các chữ B, C, D… bằng Bơ, Xơ, Đơ…,
thay cho Bê, Xê, Đê…, như ở Việt Nam mà Giáo sư
Hoàng Xuân Hăn đă gọi các chữ B, C, D, Đ… bằng
Bờ, Cờ, Dờ, Đờ …, thay cho Bê, Xê, Dê, Đê… Arnaud và
Lancelot đă giải thắc mắc cho tôi về nhóm
chữ “Le a La, Me er Mer, La Mer” mà tôi đă ấm ức,
vất vả t́m kiếm từ lâu… (http://www.vietthuc.org/2010/09/10/i-t%E1%BB%9D-t%E1%BB%9D-i-ti-le-a-la-me-er-mer-la-mer) Kính thưa quư vị, Sau khi tŕnh bày ở trên 2 lí do khiến
tôi đặt câu hỏi “Có
cần thiết phải học đánh vần khi dạy
tiếng Việt không?”, nay tôi xin được tŕnh
bày quan điểm của tôi cho câu hỏi này như sau: -
Qua
bài viết “I Tờ, Tờ i
Ti. Le a La, Me er Mer, La Mer” của TS Nguyễn
Vĩnh-Tráng, ta thấy ở Pháp vào các thế kỷ 17, 18,… người Pháp đă học đánh
vần tiếng Pháp, (vd: Le a La, Me e Mer, La Mer). Vậy th́ v́
sao hiện nay phương pháp đánh vần này không c̣n áp
dụng nữa cho người bắt đầu học
tiếng Pháp? Phải chăng đánh vần chỉ
hữu ích khi mà chữ Pháp ở giai đoạn mới
bắt đầu ổn định? Phải chăng vào
thế kỷ 17, 18, đa số người Pháp ở
nông thôn vẫn c̣n mù chữ, ít có cơ hội tiếp
cận sách báo tiếng Pháp, nên những người Pháp
lớn tuổi khi bắt đầu học chữ Pháp
th́ họ hoặc các giáo chức lúc ấy dùng cách đánh
vần cho dễ nhớ, v́ học xong chắc cũng ít
có cơ hội đọc sách báo. Và từ thế kỷ
20 trở đi, cơ hội tiếp cận chữ Pháp
qua sách báo, tivi, … được phổ
biến rộng răi cho mọi giới nên việc dạy
đánh vần chữ Pháp không c̣n cần thiết nữa? -
Phải
chăng tương tự như vậy, những năm
1945, 1946,… đa số người Việt c̣n mù chữ,
ít có cơ hội tiếp cận sách báo Việt ngữ
nên những người Việt lớn tuổi khi
bắt đầu học chữ quốc ngữ, th́
họ hoặc các giáo chức lúc ấy dùng cách đánh
vần, đặt thơ cho dễ nhớ v́ học xong
chắc cũng ít có cơ hội đọc sách báo? -
Và
giả sử các lí do nêu trên là đúng, cùng với việc
từ vài năm nay trở lại đây, cơ hội
tiếp cận chữ quốc ngữ qua sách báo, tivi,
internet,… đă được phổ
biến rộng răi cho mọi giới, vậy th́ có nên xét
lại việc dạy đánh vần chữ quốc
ngữ c̣n cần thiết nữa hay không? V́ hiện nay,
nhiều trẻ em Việt trong nước, lúc c̣n 3-4
tuổi, đă hằng ngày nghe thấy trên màn h́nh tivi cách
đọc nguyên con chữ, qua các chương tŕnh có tính
giáo dục cho thiếu nhi., tương tự như
việc các thiếu nhi Anh-Pháp đă tiếp cận
hằng ngày cách đọc nguyên con chữ trong tiếng
Anh-Pháp từ vài chục năm trước đây. Như
khi học tiếng Anh chẳng hạn, ví dụ học
chữ “book” (quyển
sách), học sinh phát âm nguyên chữ là “book”, chứ
thầy cô không dạy đánh vần là “bờ-ook-book”,
hoặc đánh vần là “o-o-kờ-ook-bờ-ook-book”. V́
vậy, sau khi đă biết chữ “book” phải phát âm là “book” th́ khi học
đến chữ “look”
(nh́n) chẳng hạn, bộ óc của học sinh tự
động biết phát âm là “look” v́ học sinh đă
học cách phát âm chữ “l”
là “lờ”, kết hợp với cách phát âm vần “ook” đă học trong
chữ “book”, nên học
sinh sẽ đọc được ngay là “look”. -
Điểm
đặc biệt chính của tiếng Việt, khi so
với nhiều tiếng khác trong hệ thống sử
dụng alphabet Latin, là có dùng 5 dấu thanh: Sắc,
Huyền, Hỏi, Ngă, Nặng. V́ vậy, thiển nghĩ
hiện nay khi dạy tiếng Việt cho trẻ em trong
nước, phương pháp đánh vần chỉ nên áp
dụng cho những chữ có dấu thanh. Ví dụ:
chữ “Cúng”, đánh
vần là Cung-sắc-Cúng, chữ “Cùng”, đánh vần là Cung-huyền-Cùng, v.v.…. C̣n
chữ “Cung” th́ ta
đọc nguyên con chữ là Cung, không cần đánh
vần, v́ trước khi học đến chữ “Cung” th́ trẻ em đă
học cách đọc tên chữ “C” là Cê, phát âm là Cờ và đă học vần “ung” phát âm nguyên vần là Ung
(không đánh vần như xưa là: U-ngờ-Ung). -
Riêng
với trẻ em Việt ở hải ngoại, dù các em có
học tiếng Việt cuối tuần nhưng cơ
hội tiếp cận với sách báo, ti vi
Việt ngữ rất hạn chế, th́ việc dạy
đánh vần, nếu cần thiết, cũng chỉ nên
thêm một bước. Ví dụ: chữ “Cúng”, đánh vần là Cờ-ung-cung-sắc-Cúng,
chữ “Cùng”, đánh
vần là Cờ-ung-cung-huyền-Cùng, v.v.…. C̣n chữ “Cung” th́ ta đọc nên
nguyên con chữ là Cung, hoặc đánh vần là
Cờ-ung-Cung. Sau cùng, để bổ sung cho phần
tŕnh bày ở trên, tôi xin sao chép lại đây một
đoạn của độc giả Half Moon, trên diễn
đàn Đặc Trưng cách đây vài năm, về
chủ đề “Dạy con
đánh vần tiếng Việt”: “… cho đến nay,
có 4 phương pháp dạy đọc Việt ngữ: - 1/ Phương pháp
ghép chữ: là phương pháp cổ điển nhất:
ghép các chữ cái lại với nhau, đọc thành
tiếng. Ví dụ:
TRƯỜNG – Ghép: “tê e-rờ ư trư ơ trơ en
giê trương huyền trường.” Theo phương pháp
này th́ học sinh chỉ biết tên của chữ
nhưng không phân biệt được sự khác
biệt giữa tên và âm của từng chữ cái. - 2/ Phương pháp
ráp vần ngược: ghép chữ để phát âm ra
vần, rồi sau đó ráp phụ âm đầu vào,
đọc thành tiếng. Ví dụ:
TRƯỜNG – Ghép: “Ư ơ ngờ ương. Trờ
ương trương huyền trường.” Phương pháp này
khá tốt, nhất là giúp học sinh phát âm được
cụm VẦN của tiếng ấy, nhưng ở
hải ngoại, có nhiều học sinh khi nghe ráp vần
cách này th́ viết là ƯƠNGTR`. - 3/ Phương pháp
ráp vần xuôi: dạy học sinh phát âm được
cả cụm VẦN, rồi chỉ việc ráp phụ âm
đầu vào để đọc thành tiếng. Ví dụ:
TRƯỜNG. Học sinh đă được dạy cách
phát âm cụm vần “ương”, do đó, bất cứ
chữ nào có cụm vần này, học sinh
nhận diện được và đánh vần như
sau: “Trờ ương trương huyền
trường”. Phương pháp này
tốt nhất, nhưng buộc những người
giảng dạy phải kiên nhẫn dạy học sinh
phát âm được cụm VẦN trước khi chính
thức ráp vần. - 4/ Phương pháp
tập đọc tự nhiên: Cho học sinh các bài tập
đọc với những chữ thông dụng hợp
tŕnh độ. Đọc trước cho các em vừa
đọc theo vừa nhận mặt chữ. Sau đó cho
các em tự đọc buông một ḿnh. Bốn phương
pháp trên được nhà văn Quyên Di dùng để
giảng dạy Việt ngữ tại các trường
đại học CSUF, CSULB, UCLA. Để chúng ta
chọn ra một phương pháp thích ứng với
việc dạy cho các trẻ em VN tại hải ngoại
đọc được Việt ngữ một cách nhanh
chóng và dễ dàng, Half Moon kính mong tất cả các vị
c̣n quan tâm đến ngữ học Việt Nam góp ư &
bàn luận thêm. ( dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=157162&mpage=1
) Tóm lại, quan điểm của chúng
tôi là: -
Nên
hạn chế việc đánh vần đến mức
tối đa, và nên tập học sinh đọc nguyên
chữ. Chú trọng quá nhiều vào việc đánh vần
nhiều khi cũng cũng làm rối trí các em nhỏ. Ví
dụ: nhiều em nhỏ không hiểu v́ sao cũng là
một chữ “t” mà có khi
phát âm là “tê”, khi th́ “tờ”, chưa kể khi thấy
chữ “tờ”, các em
cũng phải đọc là “tờ”. -
Chúng
ta, kể cả các học sinh đă biết đọc
chữ Việt, khi đọc chữ Việt, bộ óc
chúng ta bắt chúng ta đọc nguyên chữ chứ không
đọc theo cách đánh vần đă
học từ nhỏ. Ví dụ: khi thấy chữ “cùng”, ta đọc ngay là
“cùng”, chứ bộ óc không bắt chúng ta phải làm
việc là “Cờ-ung-cung-huyền-cùng”. Nói chung,
bộ óc các học sinh sẽ tự hiểu ra quy luật
đọc và ghép vần một khi được dạy
nhiều các bài tập đọc với những chữ
thông dụng hợp tŕnh độ. Kính thưa quư vị, Việc học đánh vần khi
dạy tiếng Việt đă có từ rất lâu, có
thể có từ khi chữ Quốc ngữ mới ra
đời. Thế nhưng phương pháp dạy cách
đánh vần tiếng Việt cho đến nay vẫn
c̣n nhiều tranh luận về nhiều điểm
như: thứ tự nào hợp lư khi đánh vần,
hoặc cách đọc tên và phát âm các chữ cái, v.v… Cho đến giờ này, trong nhiệm
vụ là Hiệu Trưởng một trường
Việt ngữ cuối tuần, tôi vẫn thường
nhận được các thắc mắc từ phụ
huynh học sinh kể cả từ giáo viên về cách
đánh vần chữ Việt sao cho hợp lư. Thiển nghĩ, với những
điều tŕnh bày ở trên, chúng ta nên suy nghiệm thêm
về câu hỏi “Có cần
thiết phải học đánh vần khi dạy
tiếng Việt không?” Lời sau chót là chúng tôi xin chân thành
cảm ơn Viện Việt Học đă tổ chức
Hội Nghị Quốc Tế về Tiếng Việt
để chúng tôi có cơ hội tŕnh bày quan điểm
của ḿnh. Nhân đây, cũng xin cảm ơn tác giả
Nguyễn Vĩnh-Tráng về bài viết lư thú “I Tờ, Tờ i Ti. Le a La, Me e
Mer, La Mer”, nó cho chúng tôi có thêm tin tưởng để
nêu ra câu hỏi mà chúng tôi hằng suy nghĩ nhiều
năm nay khi c̣n dạy tiếng Việt ở trong
nước, cũng như hiện nay khi dạy tiếng
Việt cho học sinh ở Úc. Trần Tư B́nh Sydney, 29/6/2011 3. Tiểu sử tác
giả: Trần Tư B́nh -
Sinh năm 1954, tốt nghiệp
khoa Ngữ Văn, năm 1977, Đại Học Tổng
Hợp, TP.HCM (ĐH. Văn khoa Sài G̣n). -
Tốt nghiệp Sư Phạm
Tiểu Học Đà Nẵng khóa 1972-1974. -
Dạy Tiểu học ở
tỉnh Quảng Nam niên khóa 1974. -
Dạy môn Văn trường
THPT cấp 3 Lư Thường Kiệt, Hóc Môn, TP.HCM, các niên
khóa 1977-1980. -
Dạy Việt ngữ cuối
tuần ở Sydney từ năm 1987-2009 (Trường
Văn hóa Việt Nam Bankstown, Sydney, Úc). -
Hiệu Trưởng
trường Văn hóa Việt Nam Marrickville, Sydney, Úc,
từ năm 2010 đến nay (thuộc hệ thống
Liên Trường Văn Hóa Sydney, thành lập từ 1982 www.trangvhvn.wordpress.com ) -
Chủ nhiệm trang web Chữ
Việt Nhanh ( www.chuvietnhanh.sf.net
), gồm bài vở và các sưu tầm hữu ích liên quan
đến chữ Việt trong thời đại internet. oOo o Chi
tiết Hội
Nghị Quốc Tế về Tiếng Việt: Lịch
sử và Việc Giảng dạy tại Các Trường
Việt ngữ, trường Trung học và Đại
học tại Hải ngoại: http://www.viethoc.com/Home/sinh-hoat/hoinghiquoctevetiengvietlichsuvaviecgiangdaytaicactruongvietngutruongtrunghocvadhaihoctaihaingoai © Trần Tư B́nh (Email: Bài đọc thêm cùng chủ
đề: • Có nên sử dụng phương pháp
đánh vần để dạy tiếng Việt hay không? - GS.
Nguyễn Hưng Quốc Lời tác
giả: Khi đăng loạt bài “Dạy tiếng Việt: Dễ hay khó?”, tôi nhận được khá nhiều
email, chủ yếu từ phụ huynh và các thầy cô giáo
dạy tiếng Việt rải rác khắp nơi, hỏi
thăm về các phương pháp dạy tiếng
Việt. Phần lớn tập trung vào một vấn
đề cụ thể: Có nên sử dụng phương
pháp đánh vần để dạy tiếng Việt hay
không? Tôi viết
loạt bài này xin thay cho câu trả lời với từng
người thăm hỏi. NHQ http://chuvietnhanh.sourceforge.net/CoNenSuDungPhuongPhapDanhVanDeDayTiengVietHayKhong.htm |
|
|