ĐÔI LỜI VỀ CHỮ QUỐC NGỮ!
(Tác giả:
Nhà giáo Hoàng Văn Bát)
Dưới thời Bắc thuộc hàng ngàn năm, chữ Hán là thứ chữ nhà nước phong kiến dùng làm thứ
chữ viết chính để cai trị và
diễn tả ngôn ngữ Việt? Nó đương nhiên trở thành “Chữ Quốc ngữ” của Việt
Nam thời đó?
Chữ Nôm là thứ chữ riêng của người Việt yêu nước, được
các cụ xưa sáng tạo
ra. Lấy chữ Hán làm gốc để chế ra chữ
Nôm.
Có lẽ lúc đó
cũng có một số người phản đối như bây giờ? Họ cũng lấy lý do:
Tại sao lại dùng chữ Nôm để thay thế chữ Hán, một thứ chữ có truyền thống hàng ngàn năm? Nguồn tư liệu, văn khố, một kho tàng văn
hóa đồ sộ làm sao
có thể bỏ đi được? Nền giáo dục của một đất nước ngàn năm văn
hiến…bị thay thế?
Họ chê bai chữ Nôm. Trong dân gian đã có
câu chế giễu, khinh thường: “Nôm na quách qué!?”.
Nhưng mọi chuyện
vẫn diễn ra đúng quy
luật, theo nguyện vọng của dân tộc?
Chữ Hán hàng ngàn năm bị
nhân dân phế bỏ.
Với tinh thần tự hào dân tộc
các bậc “Túc Nho” đã viết nên những tác phẩm văn học nổi tiếng bằng chữ Nôm như:
Truyện Kiều, Cung Oán
Ngâm Khúc, Ai Tư Vãn, Việt Nam Quốc Sử
diễn ca, Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập,
Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa, Quốc
Âm Thi Tập…
Tổng cộng có hơn 30 tác phẩm có giá trị?
Nhưng, khi chữ quốc ngữ xuất hiện các tác phẩm
này có tồn
tại không nhỉ? Và ngày
nay nó như thế nào? Câu trả lời
hẳn các bạn đã rõ.
Chắc chắn phản
ứng của giới Nho sĩ uyên bác lúc
bấy giờ là vô cùng
gay gắt? Bỗng nhiên…họ bị “mù chữ?”
và các tác
phẩm văn học có giá
trị của họ sẽ bị mất đi!?
Chữ quốc ngữ
ra đời…ban đầu nó như thế nào? Tôi xin
tóm tắt như sau:
- Ban đầu chữ quốc ngữ được viết liền nhau và chưa
có dấu: Ví dụ:
Quanmguya = Quảng Ngãi
Onsaij
= ông sải
Tuijciam biêt = Tui Chẳng
Biết
Mocaij
= một cái
- Chưa có các phụ
âm đơn: đ,
x, v cho nên những phụ âm này được
viết như sau:
dj =
đ (đói = doij)
sc =
x, (xin = scin)
b = v, (vào = bau)
- Thiếu phụ âm kép:
ch, gh, nh,
tr; cho nên:
gn = nh
cia =
ch
- Đến năm 1626, chữ Quốc
Ngữ đã được viết rời ra. Theo tài liệu viết tay của Francesco Buzomi:
Thien chu = thiên chũ (thiên chúa)
ngaọc huan = ngọc hoàng
- Mãi đến năm 1632, hệ thống phụ âm, nguyên
âm và các
dấu thanh đã trở nên hoàn hảo.
Dưới đây là một vài
chữ từ tài liệu của Amaral:
Đàng tlaõ = đàng trong,
Đàng ngoày = đàng ngoài,
Đđàng tlên = đàng
trên
Nhà thương đây = nhà thượng đài
- Đến đây ta thấy chữ Quốc Ngữ đã tiến được một bước dài. Đó là có
đủ năm dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng), các nguyên âm,
các âm kép
và những phụ âm kép.
Từ Điển Béhaine
(1772) Béhaine và một số người Việt khác đã cộng tác cùng hoàn
thành quyển từ điển Annam -
Latin. Bộ từ điển này gồm hai phần,
phần tra chữ Nôm theo
214 bộ chữ Hán và phần từ
điển Nôm - Quốc
ngữ - Latin.
Những cải tiến
trong quyển từ điển này là:
+ Thống nhất các phụ âm đầu
+ Loại bỏ các phụ
âm: bl, de, ge, ml, tl và thống
nhất các phụ âm cuối.
Về sau này Từ Điển Taberd (1832) đã chỉnh lý hoàn thiện chữ quốc ngữ. Taberd đã sử dụng và bổ
sung quyển từ điển của Béhaine để hoàn tất hai quyển từ điển:
Annam-Latin và Latin-Annam. Từ
điển này có nhiều từ hơn những quyển từ điển đã làm trước
đó. Từ điển Annam-Latin của
de Rhodes (1651) có 3772 từ,
De Béhaine (1772) có 4843 từ, Taberd (1838) có 4959 từ. Công việc biên soạn phần Nôm, phần Quốc Ngữ và chú
thích nghĩa là công việc
của một số người Việt
Nam. Còn trong việc biên soạn quyển từ điển này, Taberd chỉ
chủ trương và phối hợp.
Kể từ năm
1862 trở về sau, chữ quốc ngữ được sử dụng rộng rãi trong giới
truyền giáo, nhà cầm quyền
Pháp sử dụng chữ quốc ngữ để làm phương tiện cai trị nên họ
ra sức phổ biến chữ quốc ngữ, biến chữ quốc ngữ trở nên thông dụng.
Trong thời kỳ này các
tác phẩm chữ Nôm như
Truyện Kiều và nhiều tác phẩm văn học chữ Nôm có giá
trị khác được dịch
sang chữ quốc ngữ. Trong đó có quyển tự điển song ngữ của
Trương Vĩnh Ký,
đặc biệt có quyển Đại Nam quốc âm tự vị
của Huỳnh Tịnh
Paulus Của (1895) là quyển tự điển xưa nhất hiện nay còn lưu hành
với 7537 từ đơn. Quyển này chứa nhiều từ ngữ xưa ngày nay không còn sử dụng
nữa
. Vì vậy, nó là một
kho tài liệu
vô cùng quý
giá.
Ngoài
ra còn có
các tờ báo như: Gia Định
Báo (1865), Phan Yên báo (1868), Nhật Trình Nam Kỳ (1883) Nông Cổ Mín
Đàm (1901)… Đánh dấu sự phát triển
vượt bậc của chữ quốc ngữ.
Bước vào thế
kỷ 20 chữ quốc ngữ tiếp tục được phát triển mạnh mẽ thông qua phong trào Đông Du và Duy Tân của các nho sĩ
yêu nước như Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh. Trường dạy chữ quốc ngữ phát triển rầm rộ: nhất là ở Quảng Nam (1905), Bình Thuận
(Trường Dục Thanh, 1907) và Hà Nội (Đông Kinh
Nghĩa Thục,1907).
Khi phong trào Duy Tân, và Đông Kinh
Nghĩa Thục ngày càng
lớn mạnh, nhà cầm quyền
thuộc địa
Pháp lo ngại tinh thần yêu nước và chống thực dân Pháp của đồng bào Việt
Nam. Việt Nam Vong Quốc Sử của nhà ái
quốc Phan Bội
Châu xuất hiện lúc bấy giờ
là một trong những tiếng chuông thức tỉnh tinh thần dân tộc. Làn sóng yêu
nước nổi lên khắp nơi, làm thực
dân Pháp phải lo sợ, nên đã
ngưng trợ cấp và đóng
cửa một số trường.
Tuy vậy, chữ quốc ngữ vẫn tiếp tục được phổ cập trong suốt chiều dài lịch sử nhờ chương trình xóa mù trên
quy mô toàn
quốc, chất lượng lượng
giáo dục ngày càng nâng
cao và ngày
nay, chữ quốc ngữ đã trở thành “Quốc hồn, quốc túy” của dân tộc.
Câu hỏi được đặt ra là: Để chữ quốc ngữ có được
như ngày nay nó đã trải
qua bao nhiêu lần chỉnh sửa?
So sánh chữ viết ban đầu lúc mới hình thành và bây
giờ có khác nhau không?
Có quá nhiều
chữ khác nhau và những
người học nhiều nhìn vào chắc cũng “mù chữ?”
Ai là những người đã bỏ công sức ra để làm công việc
tìm tòi chỉnh
sửa đó? Có phải đó
là trách nhiệm của họ không? Họ làm việc
đó với mục đích gì? Có ai ép
họ phải làm chuyện đó hay không?
Rất tiếc là những lần chỉnh sửa như vậy lại thiếu đi “bóng dáng”
của những người chuyên “ném đá” như
hiện nay?
Chữ quốc ngữ
của chúng ta hiện nay như thế nào? Đã hoàn thiện
chưa? Những khuyết điểm hạn chế đó là gì?
Hãy thử phân tích, tìm tòi,
tư duy phản biện…để thấy… (Xem trang Chữ Việt Nhanh của
anh Trần Tư Bình).
Nó đã hoàn hảo
rồi… Nhưng vẫn còn nhiều
bất cập lắm!
“Vận hành tốt không có nghĩa
là không thể vận hành tốt hơn”
Khi đã thấy rồi, thì phải chỉnh sửa như thế nào? Đưa ra giải pháp
chỉnh sửa bổ sung ra sao?
Trách
nhiệm này không chỉ của riêng ai? Và…chẳng ai muốn làm để rồi bị những kẻ khác “ném đá?”.
Chữ quốc ngữ
có được như hôm nay…nó đã trải
qua lịch sử chỉnh sửa gần 400 năm (khoảng 1626 – 2020)? Và theo thời gian nó sẽ
còn tiếp tục được chỉnh sửa bổ sung nữa.
Chữ viết là phương tiện để chuyển tải ngôn ngữ? Phương tiện
phải được
cải tiến, thay đổi để phù hợp với yêu cầu của
thời đại. Nó chẳng khác chi chiếc xe đạp dùng để đi, tất nhiên là nhanh
hơn đi bộ? Trên xe đạp là xe gắn
máy, tàu điện, tàu hỏa, máy bay, phi thuyền và...
Viết những dòng này, tôi chỉ
mong một điều
là tất cả chúng ta hãy cùng nhau
sống có trách nhiệm, yêu thương, góp ý chân thành,
giúp đỡ nhau, động viên nhau, cùng
nhau xây dựng…để chữ viết của chúng ta ngày càng hoàn
hảo hơn.
Xin chân thành cảm ơn các bạn
đã đọc bài viết này./.
------
Ghi chú: Trong bài viết số liệu sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.
Tác giả: Hoàng Văn Bát. -
Facebook: Bát Hoàng.
__________
NGUỒN: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1489698591232613&set=a.399274996941650&type=3&theater
Về Trang Chính: Chữ Việt Nhanh
http://chuvietnhanh.sourceforge.net