|
CHỮ QUỐC NGỮ QUA
NHỮNG BIỂN DÂU Đoàn
Xuân Kiên (Chủ
nhiệm trang mạng thongluan.org)
|
|
|
1.
Chữ
viết ra đời rất muộn màng so với
tiếng nói của một dân tộc. Con người
đă truyền thông với nhau bằng tiếng nói từ
khi họ kết tập với nhau thành những tập
đoàn chung sống. Nhưng chỉ là từ khi
một thứ tiếng nói đă được sử
dụng thật thuần thục, sản sinh ra nhu cầu
ghi lại những ư tưởng lời nói của ḿnh,
khi ấy chữ viết mới thật sự ra
đời. Thật ra, khó có thể nói là chữ
viết đă ra đời “nhất thành bất biến“
như chúng ta thấy ngày nay. Lịch sử chữ
viết đă trải qua bao phen biến đổi,
từ h́nh thức thắt nút dây như đă
đượcghi nhận trong một câu ở Kinh
Dịch: “Thượng cổ kết thằng nhi trị…”
đến sâu chuỗi vỏ ṣ có màu sắc khác nhau
như người da đỏ Iroquois, đều là
những h́nh thức kí hiệu để ghi lại ư
tưởng người xưa muốn truyền
đạt cho nhau, hoặc đơn giản là để
ghi dấu lại cho nhớ. Những h́nh thức
đó đều là những dạng mở đầu do
con người ṃ mẫm mà có được.
Những h́nh thức chữ viết bằng đồ
vật như vừa nói ở trên là những ǵ sơ
khai nhất của chữ viết (h́nh 1). Tiến lên
một bước nữa là h́nh thức chữ viết
bằng h́nh vẽ mà ta c̣n có thể thấy trong các
văn bản cổ trên đá của người cổ
Ai cập từ hơn 4000 năm trước, hoặc là
những vẽ trên đồ vật bằng đất
nung của người Sumer cũng khoảng thời ḱ
hơn 3000 năm trước (h́nh 2).
H́nh 1: chữ viết kết
bằng dây thừng của người Chăm (trong khu
vực văn hoá Đông sơn)
[1]
H́nh 2: Chữ viết bằng
h́nh vẽ của người Ai Cập cổ H́nh thức chữ viết biểu ư
như c̣n thấy ở một số chữ Hán
đơn giản ban đầu vạch trên các mai rùa
đă có thể gọi là một bước tiến
của lịch sử chữ viết (h́nh 3).
tượng
sơn ḱ
b́
nữ H́nh 3: chữ hán sơ khai t́m
thấy trên mai rùa H́nh thức phát triển cao nhất
của chữ viết là h́nh thức ghi âm mà
dấu vết buổi ban đầu bộ chữ
viết của người Phoenician (h́nh 4).
H́nh 4: một vài chữ cái
của người Phoenician (thế kỉ 11 tcn) Chữ viết ra đời đă góp
phần rất lớn vào việc phát triển ngôn ngữ
con người, tạo ra một bước nhảy
vọt quan trọng: ghi lại tiếng nói để
lưu giữ hoặc truyền đạt trong không gian
rộng hơn tầm hạn của tiếng nói.
Nhưng giữa tiếng nói và chữ viết,không
bao giờ có thể tách ĺa hoặc thủ tiêu một
yếu tố nào: không thể có chữ viết nếu
không tồn tại một tiếng nói trước
đó. Tương quan giữa tiếng nói và chữ
viết như vậy là tương quan
trước-sau. Và chữ viết chỉ có thể
xem là những kí hiệu như bao nhiêu hệ
thống kí hiệu khác do con người chế tác
để biểu đạt như mộtthứ nội
dung nào đó. CHỮ VIẾT CỦA
NGƯỜI VIỆT 2.
Chữ viết của
người Việt ra đời từ bao giờ là
một câu hỏi chưa dễ dàng có được câu
trả lời rơ ràng. Chỉ biết rằng, trên các
đồ vật bằng đá và bằng
đồng của thời ḱ văn minh Đông Sơn
của dân tộc Lạc Việt, có những dấu
hiệu cho phép ta đặt giả thuyết về
dạng chữ viết cổ xưa của dân tộc
trước khi bị bọn xâm lược nhà Hán thủ
tiêu trong mưu đồ đồng hoá dân tộc Lạc
Việt. Hệ thống chữ viết của
người Việt nay đă qua nhiều phen thay
đổi do những đẩy đưa của
lịch sử. Khi bị Hán tộc thống trị
hơn ngh́n năm, người Việt đă trải qua
một cuộc giao lưu văn hoá lớn, mà một trong
số những thành tựu văn hoá mới chính là bộ
chữ viết mới được h́nh thành: chữ
nôm. Chữ nôm là một thể hiện ư chí
sống c̣n của tinh thần dân tộc về mặt
ngôn ngữ văn tự; dùng chính những nét viết
của chữ Hán để ghi lại tiếng nói của
dân tộc, nhà nho Đại Việt đă dơng dạc nói
lên ư chí của giống ṇi, quyết đạp
bằng những nghiệt ngă của số phận nô
lệ để vươn lên độc lập.
Những tấm bia cổ xưa từ đời các vua
nhà Lí c̣n cho thấy những tên gọi các làng xóm hoặc
tên người rất “nôm na”, không thể không có nhu
cầu ghi lại bằng một kiểu chữ viết
riêng trong khi mà chữ viết xưa cũ đă tiêu
trầm sau hơn ngh́n năm ngoại thuộc. Đến khi người Pháp sang xâm
chiếm nước ta, việc làm đầu tiên của
nhà nước thuộc địa là huỷ bỏ vị
thế của hệ thống giáo dục bằng chữ
hán, để thay thế bằng "chữ quốc
ngữ", một hệ thống chữ viết
mượn của bộ chữ cái tiếng Latin.
"Chữ quốc ngữ" cũng như "chữ
nôm" trước đó, chỉ là những hệ
thống chữ viết vay mượn của kẻ
mạnh để làm thành công cụ văn hoá dân tộc
của một thời ḱ mà ư thức độc lập
tự chủ đă bị trói chặt. Dù là mượn
nét viết của chữ Hán hay của bộ chữ cái
Latin, các hệ thống chữ viết của ta
đều có một điểm giống nhau là: Chữ
Nôm hay Chữ Quốc Ngữ đều là hệ thống
chữ viết ghi âm, tức là dạng chữ viết
ở mức phát triển cao nhất trong lịch sử
chữ viết loài người. Nguyên tắc của
loại chữ viết kí âm là “mỗi âm một kí
hiệu”, “nói sao viết vậy”. Tiếng Việt
thời Nguyễn Trăi có những phụ âm đôi mà
hiện nay một số dân tộc thuộc chủng Nam Á
cư ngụ trên tây nguyên hăy c̣n nói, như bl, tl, kl,
th́ chữ nôm cũng đă ghi lại trung thực
những âm đó:
Cũng thế, khi Chữ Quốc
Ngữ được các nhà truyền đạo soạn
ra vào đầu thế kỉ XVII, tiếng Việt c̣n
một số cách phát âm mà nay không c̣n nữa, như
trường hợp chữ " ß " trong từ
điển Việt-Bồ-La của A. de Rhodes (1651),
đọc nửa như [b] nửa như [v].
Một trường hợp khác: sự khác biệt
giữa hai âm [gi] và [d] đă được xác
định rơ ràng và khi viết một từ như giản
dị chẳng hạn, không thể tuỳ tiện
như một số người bây giờ, dù rằng
ngày nay người Bắc nói hai tiếng cũng có âm / z
/, khi viết ra chữ th́ đều là [d] thật
đấy. CHỮ QUỐC NGỮ Tên gọi hệ thống chữ
viết tiếng Việt hiện nay là do các nhà truyền
giáo phương tây đặt ra từ thế kỉ XVII.
"Chữ quốc ngữ" nghĩa đen là
"chữ viết của tiếng nói nước
ta". Cách gọi này không chính xác, v́ như đă nói,
chữ nôm cũng là thứ chữ để ghi tiếng
nói nước ta, có đâu chỉ riêng hệ thống
chữ viết Latin? Chẳng qua đó chỉ là
thủ thuật vận động quần chúng của
các vị thừa sai nhằm triệt hạ uy tín cũng
như địa vị của chữ hán, chữ nôm lúc
bấy giờ (thế kỉ XVII). Chữ Quốc Ngữ được
chế tác từ năm nào, đến nay vẫn chưa
rơ. Chỉ biết rằng, năm 1593 đă có một
giáo sĩ Portugal là Diego Aduarte đến đất
Quảng nam và ở đây ba năm. Năm 1615,
một giáo sĩ người Ư là Busomi đến cửa
Hàn (Quảng nam) giảng đạo măi đến năm
1639. Rất nhiều tài liệu viết tay hiện c̣n
lưu trữ trong các thư viện giáo hội Thiên Chúa
ở Cũng khoảng thời gian này,
một vị thừa sai trẻ tuổi người Vào đầu năm 1625 th́ giáo sĩ
Alexandre de Rhodes đến Hội An giảng đạo.
Vị thừa sai ḍng Tên người Pháp này cùng vị giáo
sĩ Ư khác là Christoforo Borri đến đất Việt
năm 1618 trước đó đều là những
học giả, nhất là A. de Rhodes, chăm chỉ
học tiếng Việt trong ṿng mấy tháng là đă
“giảng đạo cho người trong xứ bằng
tiếng của họ được” [3] Đấy là những
yếu tố con người và hoàn cảnh cần cho
sự ra đời một hệ thống chữ
viết tiện lợi cho việc soạn sách truyền
đạo. Ṛng ră hơn 30 năm liền, chữ
Quốc ngữ đă được hoàn chỉnh dần,
qua những công phu của những nhà truyền giáo
H́nh 5: một trang từ điển
Việt-Bồ-La của A. de Rhodes (1651) Một
quyển lịch sử Việt nam do thầy giảng
Bento Thiện soạn bằng chữ quốc ngữ
năm 1659 đă chứng tỏ sự trưởng thành
vượt bực của hệ thống chữ viết
Latin trong việc ghi âm tiếng Việt. Chữ
viết đă triệt để theo qui tắc ghi âm,
nghĩa là nói sao viết vậy, mỗi kí hiệu chỉ
một âm thanh. Cách viết chữ quốc ngữ
của Bento Thiện cũng theo phương pháp trong
từ điển A.de Rhodes, nghĩa là theo phương
pháp ghi âm của Portugal khi viết "ng" thành /
ũ/; phiên âm kiểu Ư khi viết "gi",
"qu"; phiên âm kiểu Pháp khi viết "k" trước
nguyên âm "e,ê,i", và "c" trước
các nguyên âm khác… Đó là một ưu điểm nếu
nh́n về vẻ đa diện của chữ quốc
ngữ về mặt cấu tạo.
Ngày nay, đọc lại sách của A.de Rhodes để
đối chiếu với những sách ra đời sau
này,sẽ nhận thấy những thay đổi về
cách viết của chữ quốc ngữ. Một thí
dụ: từ điển A. de Rhodes (1651) có hai từ ghi
như sau: blời (trời), tloũ (trông); đến
từ điển Dictionarium Anamitico Latinum do Pigneau de
Béhaine soạn (1773) đă không thấy những âm đôi
"bl" và "tl" nữa, cũng không c̣n
phụ âm cuối "ũ". Hai từ này đă
viết như chúng ta ngày nay, nghĩa là trời và
trông. Các từ điển về sau này, tính từ
Dictionarium Anamitico Latinum của Taberd (Serampore,
1838) đă kiện toàn thêm những h́nh thức viết cho
chữ quốc ngữ. Mặc dù chữ quốc
ngữ đă dần dần ổn định về cách
viết, vẫn có
H́nh 6: một trang tự vị Dictionarium Abamitico
Latinum của Pigneau de Béhaine (1773) những
thay đổi nhỏ nhặt, có khi ư thức, có khi vô
t́nh. Chữ quốc ngữ đă không bao giờ
“nhất thành bất biến” cả. TRÊN ĐƯỜNG TRƯỞNG THÀNH Đến
đầu thế kỉ XX, một học giả Pháp khi
nhắc lại công tŕnh của A. de. Lời tán tụng quả là đă
đến mức tột đỉnh. Nhưng
rồi cũng chính một học giả của Viện
Bác cổ ấy, trong một bài khảo cứu về
tiếng Mường ở Sơn tây, nhân tiện đă
nhận định về từ điển A.de. Quả là thế, từ khi ra
đời đến nay, chữ Quốc ngữ đă
luôn luôn được tu chỉnh. Bộ mặt
của chữ viết từ từ điển de Đề nghị sửa
đổi chữ quốc ngữ năm 1902 Hội nghị Nghiên Cứu Viễn
Đông 1902 tại Hà nội có một Uỷ ban Cải
Cách Chữ Quốc Ngữ do ông Chéon đứng
đầu. Phúc tŕnh của Uỷ ban đúc kết
những ư kiến thảo luận trong ba ngày 6/12 -8/12 cho
ta biết đại cương những đề nghị
sửa đổi như sau: (1) Phải
triệt để tôn trọng nguyên tắc: mỗi
chữ một giá trị kí âm thôi. V́ vậy, hoặc
phải bỏ chữ g trong gang hay trong gi bởi
lẽ rằng hai chữ cái ở đầu phát âm khác
nhau; cũng thế, cá và kẻ phải cùng
một cách viết chữ cái mở đầu; (2) Về các âm
chính (nguyên âm), hệ thống hiện nay là thỏa
đáng, trừ dấu mũ ở trên â có giá tri khác
hẳn trong ô và ê, nên đề nghị thay
chữ â bằng a’ (có râu bên cạnh) th́ hơn.
“Uỷ ban cũng nghĩ rằng phải bỏ hẳn
thói quen mà vài tác giả vẫn có, trái với phương
pháp của de Rhodes, là thay y vào i trong vài
trường hợp (kỹ, lư, mỹ) mà không
có một lí do nào chứng minh cho được…” (3) Về các âm phụ, Uỷ ban đề nghị thay
một số chữ cái sau đây: c thay cho ch.
(Chữ h dùng cho những trường hợp các âm thở,
như th, kh). Nhất loạt thay k vào
chỗ của c. Chữ d (bỏ gạch
ngang) thay cho chữ đ. Âm /d/ hiện nay
sẽ thay bằng chữ "z". Chữ
"g" không mất tính cách âm họng dù là
trước nguyên âm e, ê, i, vậy th́ không thể thêm
"h" trong những trường hợp này.
Thay chữ "gi" bằng "j".
Chữ "q" không khác ǵ "k", vậy
phải bỏ và thay bằng "k"…. [6] Mặc dù được chuẩn y sau
nhiều tranh luận gay gắt giữa hai phe chống
đối nhau, bản đề nghị sửa
đổi của Uỷ ban đă giao cho Viện Viễn
Đông Bác Cổ tiếp tục nghiên cứu và thực
hiện trên các trang in của viện. Trong khi đó
th́ công chúng và nhà trường vẫn không hề biết
ǵ về những đề nghị thay đổi kia. Dự án cải tổ năm
1906 Đến năm 1906, vấn
đề cải cách lại được đặt ra
ở hội nghị của Hội Đồng Cải
Lương Học Chánh do ông Nordemann làm chủ
tịch. Bản đề nghị của Hội
Đồng lần này bị công luận đả kích
kịch liệt v́ nhiều lí do bên ngoài học thuật.
Thế là dự án cải tổ 1906 vĩnh viễn
bị chôn vùi. Linh mục Cadière có nhắc lại
chuyện này như sau: “ Xét về mặt khoa học
cũng như về mặt thực hành và sư phạm,
dự án này thật là một cuộc thoái bộ.” [7] "Quốc ngữ
mới" của nguyễn Văn Vĩnh (1928) Trên báo Trung Bắc Tân Văn,
khoảng cuối năm 1928 nhà văn và cũng là nhà báo
nổi tiếng thời bấy giờ, ông Nguyễn
Văn Vĩnh, tung ra lối in chữ quốc ngữ
mới, gọi là Quôcj Ngưw Moeij. Việc
đề xướng kiểu chữ mới này không
nhằm mục đích ngôn ngữ như những lần
trước, mà chỉ có tính vụ thực tế làm
ăn của một ông nhà báo. Chẳng là: ông chủ
báo muốn cải cách công việc in báo của ḿnh
bằng một dàn máy in kiểu tân ḱ nhưng lại không
có những con chữ Việt. Thế là đổi
sáu dấu gịong bằng con chữ cái, thay những
chữ cái riêng của hệ thống chữ viết
đang dùng nhưng không có trong bộ chữ của tây (
như là ă, đ, ư…) bằng một con
chữ nào đó tuỳ tiện chứ không dựa trên
sự chính xác về ngữ âm. Dự định của Nguyễn
Văn Vĩnh không thành, chỉ v́ ông chỉ nghĩ
đến ư đồ riêng tư chứ không dựa vào
chính hệ thống chữ quốc ngữ nh́n từ khía
cạnh học thuật. Theo chân ông, sau này c̣n có một
số người khác, lại muốn sửa đổi
chữ Quốc Ngữ theo ư đồ riêng và ư thích riêng
của họ. Đó là trường hợp Vi
Huyền Đắc ( với công tŕnh Việt tự),
Phạm Xuân Thái (qua công tŕnh Việt Ngữ Cải Cách).
Những “công tŕnh” nói trên đều mua vui chốc lát cho
giới học thuật, rồi tan vào lăng quên một cách
không thương tiếc. "Chữ và vần Việt
khoa học" của Nguyễn Bạt Tuỵ (1949) Là một người nghiên cứu
ngữ âm học tiếng Việt, Nguyễn Bạt Tuy là
một tác giả đă có nhiều cống hiến về
mặt này. Năm 1949, ông viết sách Chữ và Vần
Việt Khoa Học, nội dung là tŕnh bày những ǵ ông
t́m ṭi được về mặt âm vị học
tiếng Việt, rồi qua đó đưa ra một
bản đề nghị sửa đổi cách viết
chữ quốc ngữ mà ông cho rằng hợp lí và khoa
học. Nguyên tắc chung của quan
điểm Nguyễn Bạt Tuỵ là dựa trên nguyên
tắc âm vị học để ghi âm tiếng
Việt. Ông phân tích hệ thống đơn vị
âm thanh tiếng Việt và các lối tổ hợp âm thanh
của nó. Kết quả là tác giả phát hiện
hệ thống các âm vị có nhiều nét khác với
những ǵ xưa nay cứ yên trí là đúng đắn, nay
cần phải sửa lại. Từ đó sẽ
phải dẫn đến một một việc chính
yếu của sách là đưa ra một bản
đề nghị thay đổi cách viết chữ quốc
ngữ theo ông là chính xác theo nguyên tắc ngữ âm học
(h́nh 5). Nhưng v́ thế mà những đề nghị
của ông Nguyễn chính xác quá, hoàn hảo quá nên không có
thể thực hiện được trên thực tế
được, v́ chữ viết không phải là những
kí hiệu ngữ âm theo kiểu một bản phiên âm
quốc tế.
H́nh 7: một đoạn
viết chữ quốc ngữ theo Nguyễn Bạt
Tuỵ (1949) Đoạn thơ trên chính là: "Chí làm trai dặm ngh́n da ngựa, Gieo Thái sơn nhẹ tựa
hồng mao. Giă nhà đeo bức chiến
bào, Thét roi cầu Vị ào ào gió
thu." Bản đề nghị của
Nguyễn Bạt Tuỵ rất triệt để, v́ hoàn
toàn dựa trên nguyên tắc ghi âm, lại dựa ở trên
một số phát kiến quan trọng và mới mẻ.
Đó là nguyên nhân tại sao cho đến nay công chúng và các
chính quyền tiếp nhau ở Việt Hội nghị thống
nhất ngôn ngữ (1956) Đại Hội Văn Hoá Toàn
Quốc tại Sài G̣n năm 1956 có một Uỷ Ban Ngôn
Ngữ, cũng kiến nghị một chương tŕnh
sửa đổi một số cách viết về
chữ Quốc ngữ. Có nhiều nhà chuyên môn về
ngôn ngữ tham gia soạn thảo dự án. Nhưng
rồi cũng không có ǵ thay đổi suốt bao nhiêu
năm trời. Chương tŕnh giáo dục tiếng
Việt ở miền Nội dung của đề án cải
tổ chữ quốc ngữ cũng chỉ xoay quanh
những nét căn bản đă được khởi
xướng từ bản đề nghị của
Uỷ Ban Cải Cách năm 1902. Nhưng sở dĩ
đề án của Uỷ Ban Ngôn Ngữ lần này
vẫn rơi vào lăng quên là v́ thiếu kế hoạch
phối hợp giữa giới văn hoá và nhà
trường. Tất cả mọi sửa
đổi chỉ có thể thực hiện
được là qua báo chí và trường học.
Nhưng các nhà văn hóa lúc bấy giờ không tự tin
lắm vào chương tŕnh cải tổ của họ,
cho nên vẽ ra trên giấy tờ để tự an
ủi lương tâm. Hội nghị cải
tiến chữ quốc ngữ (1959) Tại Hà Nội, một hội
nghị cải tiến chữ Quốc ngữ
được tổ chức năm 1959 với dự
định là đẩy mạnh việc cải tiến
chữ quốc ngữ cho thêm phù hợp với thực
trạng tiếng nói của chúng ta hiện nay,
đồng thời sửa lại những chỗ không
chính xác trong lối ghi âm hiện hành. Thật ra, trong Đề
Cương Văn Hoá (1943), Đảng Cộng
Sản Đông Dương cũng đă đề ra
mục tiêu cải cách chữ quốc ngữ và xem đó
là “một việc phải làm”, “Một nhiệm vụ
cần kíp”. Các nhà khoa học ngôn ngữ miền
Bắc lúc bấy giờ cũng chia sẻ với Ủy
Ban 1902 về những cải tổ có ư nghĩa.
Nhưng rồi, cũng như Hội nghị 1956 ở
Sài G̣n, mọi bàn căi sôi nổi cũng lại ngủ yên
trên giấy tờ, v́ cho rằng “t́nh h́nh chưa thuận
tiện”, nên nhiệm vụ cải tiến chữ
quốc ngữ phải gác lại. Như đă nói trên, nội dung của
những kết luận Hội nghị 1959 cũng không
đi xa hơn những đề nghị của Uûy Ban
1902, nghĩa là cũng dựa trên cơ sở ngữ âm
học để thể hiện nguyên tắc “nói sao
viết vậy” hay là "mỗi âm được ghi
bằng một kí hiệu". Uỷ ban điển chế
văn tự (1973) Bước vào những năm 1970,
tại Sài G̣n có một cơ quan tên làHội Đồng
Văn Hoá Giáo Dục được tổ chức ra làm
công việc vạch hướng và cố vấn cho
hoạt động khoa học của Bộ Văn Hoá
Giáo Dục lúc bấy giờ. Mục tiêu nhằm
đến xem ra khá to tát. Về địa hạt ngôn
ngữ, một Uỷ Ban Điển Chế Văn Tự
được ra đời để làm công việc
bị bỏ dở từ bao nhiêu năm: cải tiến
chữ quốc ngữ. Thật ra, uỷ ban có
nhiệm vụ cụ thể lúc bấy giờ là
điển chế danh từ khoa học mà thành tích
nổi bật là sự ra đời một Nội San
Danh Từ Chuyên Môn nhằm phổ biến những
công tŕnh soạn thảo danh từ các khoa học chuyên
ngành. Tiểu ban Chính Tả cũng đă bàn căi về
những nguyên tắc chính tả và sửa đổi cách
viết. Ảnh hưởng của Uỷ ban này chưa
có ǵ đáng kể trong công chúng, v́ thời gian làm việc
quá ngắn ngủi, lại chỉ quanh quẩn giữa một
nhóm nhỏ các vị chuyên môn. Sau 1975 Những dự toán cải tổ
trước kia ở hai miền Ở hải ngoại, chưa thể
có những điều kiện thuận lợi như
thế. Nhưng những nhu cầu của tập thể
người Việt ở hải ngoại về mặt
ngôn ngữ lại đ̣i hỏi sự quan tâm đúng
mức của mọi người để công việc
duy tŕ ngôn ngữ và văn hoá dân tộc có những nền
móng ổn định và vững chắc. Thế mà,
không có được những tổ chức chuyên môn có
thể góp phần vào công việc lớn lao này.
Đây là một thử thách lớn cho mọi
người. CHỮ QUỐC NGỮ NGÀY NAY Nh́n lại chặng đường dài
từ Hội nghị Nghiên cứu Viễn đông (1902)
trở đi có thể thấy những dự án cải
cách chữ quốc ngữ đă là một mối quan tâm
của giới học thuật đối với
những ưu khuyết điểm của hệ
thống "chữ quốc ngữ". Trừ một
vài nhà trí thức tây ở đầu thế kỉ, không
ai nghi ngờ ǵ về những ưu điểm
của hệ thống chữ viết kí âm dựa theo
bảng chữ cái Latin này. Nhưng nói thế không phải
là hệ thống chữ viết này đă hoàn hảo, mà
v́ nó được tạo ra từ nhiều nguồn tri
thức bản ngữ khác nhau nên chữ quốc ngữ
đă có một số khuyết điểm tự thân
cần phải khác phục để được
nhất quán. Những cuộc vận động gọi
là "cải cách" chữ quốc ngữ từ 1902
thật ra là chỉ giúp nó nhất quán với nó, chứ
không phải là để t́m một điều ǵ
mới lạ đối với chính nó. Tiếc thay, cho đến nay việc
bàn căi chỉ là giữa các nhà trí thức chuyên môn mà thôi.
Không thấy một cố gắng nào từ phía nhà
nước và công chúng, nhất là giữa nhà trường
và hệ thống truyền thông. Một thí dụ
điển h́nh: các tập Chương Tŕnh Giáo
Dục (một văn kiện hướng dẫn
việc dạy và học tại nhà trường phổ
thông) hằng năm đều nhấn mạnh là chính
tả cần dựa theo Việt Nam Tự Điển
của Khai Trí Tiến Đức và Việt Ngữ Chánh
Tả Tự Vị của Lê Ngọc Trụ. Nhưng
trên thực tế chẳng có thầy giáo nào áp dụng
nguyên tắc chính tả theo hai từ điển nói trên, v́
thực t́nh là hai bộ từ điển trên không cùng theo
một nguyên tắc chính tả, nên dù có muốn theo th́
cũng chẳng biết theo ai. Nhà nước th́ tắc
trách như thế, bảo sao nhà trường và xă hội
cứ làm ngơ! Ngày nay, nhu cầu về lâu về dài
của cộng đồng người Việt là làm sao
duy tŕ ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Từ đó
đặt ra công việc dạy và học tiếng mẹ
đẻ bên cạnh những công việc khác.
Dạy những ǵ và dạy ra sao, là những câu hỏi mà
mỗi thầy giáo và mỗi bậc cha mẹ
thường vẫn phải đặt ra để
tự soi đường cho việc ḿnh làm; v́ đến
nay hầu như chưa có nhiều công tŕnh đầu
tư suy nghĩ cho cái công việc nặng nhọc này. Chỉ giới hạn trong phạm vi
rất nhỏ hẹp thôi, là vấn đề dạy chữ
quốc ngữ, cũng đă có nhiều việc
phải bàn. Chẳng hạn, khi cô giáo dạy trẻ
rằng ă đọc là / á/. Nhưng khi cô ghép
vần với n /n/, cô đọc là /á – n à
ăn/, cháu bé sẽ ngẩn ngơ, v́ không hiểu sao
không thấy dấu sắc / ’/ nữa. Nó cứ
đinh ninh là / á – n à án / chứ. Trực
giác của cô giáo và của cháu bé đều không sai,
chỉ có quy ước của kí hiệu ở đây không
chính xác. Ví dụ khác nữa: các cháu được
dạy ng đọc là /ngờ/ nên cứ yên trí là ngề
ngiệp đúng chính tả, như ngọc ngà
vậy thôi, v́ cũng có âm /ng/ ở đầu
tiếng… Những cái “yên trí” như vậy
đều có trong mỗi đứa trẻ con trong
mỗi người Việt ở mọi thế hệ.
Chúng ta đâu có lỗi! Chúng ta chỉ bị hệ
thống chữ viết và phương pháp dạy
học không chuẩn xác “lỡm” chúng ta mà thôi, mà nguyên do
chỉ là v́ sự bất nhất trong nguyên tắc mà chính
những người sáng chế ra chữ quốc ngữ
đặt định từ mấy trăm năm
trước: dùng chữ cái Latin để ghi các âm theo
nguyên tắc mỗi âm một kí hiệu. Những vướng víu như thế
sẽ dễ thông qua nếu ta vẫn c̣n hằng ngày hít
thở ngôn ngữ của ḿnh ở quê nhà. Nhưng
đối với trẻ con đang từng ngày bị lôi
kéo xa khỏi cộng đồng ngôn ngữ dân tộc,
những vướng víu như vậy sẽ nổi lên
rất rơ, có thể đến mức gây thành ấn
tượng không hay ho ǵ cho tiếng nói và ngôn ngữ dân
tộc. Trong trí trẻ luôn luôn có khuynh hướng
đối chiếu ngôn ngữ khi nói và viết tiếng
mẹ đẻ, v́ chúng đă có một khuôn mẫu ngôn
ngữ khác, khuôn mẫu ngôn ngữ ấn-âu cũng dùng
hệ thống chữ cái Latin. Tất cả những yếu tố
tâm lí và xă hội ngôn ngữ học nói đến ở
trên đều tác động vào việc học tiếng
mẹ đẻ của trẻ Việt song ngữ trong
cộng đồng hải ngoại hiện nay và mai sau.
Nhiệm vụ của chúng ta là làm giảm nhẹ
những thứ hành lí nặng nề không cần thiết
cho việc dạy và học tiếng Việt ở ngoài
nước. Từ đó, đặt ra việc nh́n
trở lại những ǵ chúng ta đang có: hiện t́nh
chữ quốc ngữ. Chữ quốc ngữ hiện nay
gồm có 29 chữ cái mượn từ hệ thống
chữ cái Latin có thay đổi chút ít để phù
hợp với nét vẻ riêng của tiếng Việt;
trong đó 17 chữ cái dùng để ghi phụ âm, 12
chữ cái để ghi nguyên âm. Ngoài ra c̣n có 5 dấu
để ghi sáu giọng cao thấp của mỗi
tiếng. So với hệ thống chữ nôm vốn
cũng theo nguyên tắc kí âm mà ta mượn nét viết
của chữ hán, phải nhận rằng chữ
quốc ngữ đơn giản và tiện lợi
hơn nhiều lắm, và cũng là một hệ
thống được tạo lập rất có khoa
học so với t́nh trạng khoa ngữ học ở
thế kỉ XVII – XIX. Tuy nhiên, điều đó không
có nghĩa là chữ quốc ngữ đă rất hoàn
hảo, bất khả xâm phạm. Sự thay
đổi của bộ mặt chữ quốc ngữ
trong ṿng một thế kỉ từ khi từ điển
De Rhodes ra đời cho đến khi Pigneau de Béhaine
soạn từ điển của ông đă chứng
tỏ rằng các nhà hoạt động ngôn ngữ đă
không quá bảo thủ hoặc hănh tiến đến
mức liều lĩnh cố chấp. Huống chi, ba
trăm năm qua, nhiều tiến bộ về mặt
học hỏi song song với sự đổi thay tự
nhiên của tiếng Việt, đă khiến cho những
niềm tin cũ nay trở nên đáng nghi ngờ, cần
phải dành nhiều công sức của nhiều giới
có thiện chí. Trong t́nh trạng hiện nay của
chữ quốc ngữ, hay nói đúng hơn, hiện
trạng của chữ quốc ngữ trong ṿng một
trăm năm trở lại đây – tính từ thời
điểm những bộ từ điển Taberd (1838),
Legrand de la Liraye (1877), Hùinh Tịnh Của (1895-6), Génibrel
(1898), Bonet (1899) xuất bản, có thể thấy
nhiều vấn đề cần đặt ra thảo
luận. Chúng tôi tạm quy về hai nhóm vấn
đề: 1. Những
sự thay đổi tự nhiên qua thời gian khiến
cho chữ viết không c̣n ghi đúng nội dung âm thanh
tiếng nói; 2. Những
hiện tượng đi lạc ra ngoài nguyên tắc
“mỗi kí hiệu chuyên chở một đơn vị âm
thanh của ngôn ngữ”. Chữ quốc ngữ qua ḍng
thời gian Cuốn từ điển của de
Rhodes có một phần biên soạn về ngữ pháp
tiếng Việt, có tựa là Linguae Annamiticae seu
Tunchinensis Brevis Declaratio (Báo cáo vắn tắt về
tiếng An nam hay tiếng Đàng ngoài), chính là một
tập ngữ pháp Việt nam vào thời ḱ này.
Chương I: “Chữ và vần gồm trong tiếng này”
có đoạn nói về chữ D như sau: “D phát âm và có
giá trị y như D Latin, nhưng với một vài
khác biệt, nhất là trong những từ mà D có E đi
theo gần như dính liền, lại không phát âm rơ, thí
dụ deă, pellis (da); c̣n khi không có E dính
ở giữa, th́ nó hoàn toàn đọc như D của
chúng ta, thí dụ Dà (nhà) …” [8] So sánh với đoạn nói về
chữ GI, ta thấy ông chỉ dẫn cách đọc GI
tương tự như lối đọc gi ở
tiếng Ư. Kiểu nói phân biệt /d/ và /gi/ này đă
dần dần biến mất, mà có khuynh hướng
đồng hoá cả hai thành / z / ở tiếng bắc,
và / j / ở tiếng trung, nam. Nhưng chữ
viết vẫn không thay đổi theo. H́nh thức
viết gi và d hiện nay vẫn là theo mẫu
mực của thế kỉ XVII. Nếu không dựa vào
lịch sử phát âm như thế, khó có thể hiểu
tại sao lại viết giản dị mà không
thể viết dản dị được. Hiện tượng chữ PH cũng
đáng chú ư. Từ điển A. de Rhodes cho rằng:
“Thực ra tiếng xứ này không bao giờ có P
đứng đầu các chữ như đă nói ở
phần nghiên cứu chữ F. Chỉ có PH,
đọc giống như phi của Hi lạp.” [9] Ngược lên đoạn nói về chữ F, ta
thấy chỉ dẫn như sau : “F- hay đúng hơn, PH
– v́ khi đọc nó, không tách hai môi như khi đọc F
của ta. Khi phát âm chữ này, môi cử động
rất nhẹ và hơi rít cũng chỉ qua loa.” [10] Maspéro cắt nghĩa rơ thêm rằng ph
là một âm môi hơn là âm môi răng như ngày nay. Âm
này đă thay đổi từ bao giờ không rơ, nhưng âm
/h/ trong tổ hợp /ph/ ngày nay không c̣n bật hơi
như ngày xưa; thảng hoặc chỉ c̣n một vài
nơi hoặc một vài cá nhân nói giọng cổ đó mà
thôi. [11]
Nói cách khác,ngày nay, âm PH phát âm như âm F của
người phương tây, chứ không bật hơi khi
mở hai môi như ngày xưa A. de Rhodes đă ghi nhận. Tưởng cũng cần nói thêm là de Trên đây là những sự kiện
nhặt ra được từ chính nội thân tiếng
Việt để so sánh với chữ viết theo hệ
thống chữ cái Latin. Những đổi thay này là
tự nhiên thôi. Cũng chẳng phải v́ tiếng
nói đổi thay là chữ viết cũng phải
sửa đổi theo ngay. Dù sao, thói quen của
tập thể người sử dụng ngôn ngữ
vẫn mạnh hơn ư muốn của thiểu số nhà
khoa học. Quy luật của ngôn ngữ là:
tập quán của đám đông quyết định
sự tồn tại của một hiện tượng
ngôn ngữ. Cho nên, các hiện tượng đổi
thay qua thời gian được đề cập ở
đây chỉ có ư nghĩa nói lên tính cách động
của tiếng nói qua thời gian, chứ ngôn ngữ luôn
luôn không hề “nhất thành bất biến”. Những hiện tượng
lạc ra ngoài nguyên tắc âm vị học Bộ chữ cái Latin dùng để ghi
âm tiếng Việt tất nhiên là cũng theo nguyên tắc
chung của một hệ thống chữ viết ghi
âm: mỗi chữ cái là một kí hiệu ghi lại
một âm thanh. Thế nhưng trong chữ quốc
ngữ của chúng ta, không phải lúc nào cũng có sự
trùng khít giữa chữ cái và nội dung các âm thanh. Và
đây chính là nguyên do làm nảy ra các sáng kiến cải
tổ chữ quốc ngữ một cách có ư thức do các
nhà ngôn ngữ đề xướng. Trước hết là hiện
tượng c, k, qu. Từ điển de Tại sao lại có hiện
tượng đó? Không phải tiếng Việt
đọc âm /k/ khác nhau trước hai loại nguyên âm
này, mà chính là các nhà chế tác chữ quốc ngữ đă
đem á dụng thông lệ chính tả của Pháp
đặt vào tiếng Việt. Nhưng âm / k/ trong
tiếng Pháp lại không có chúm môi trước nguyên âm, cho
nên phải mượn QU trong tiếng Latin và đọc y
như ở trong tiếng Latin vậy. Đây là
một thói quen của một số giáo sĩ
phương tây đặt để lên tiếng Việt
mà không có lí do thoả đáng nào cả. Mặc dù vậy, thầy cô giáo
tiếng Việt vẫn cứ phải gọi đó là
“quy tắc” để nhắc nhở cho học sinh
viết đúng “nguyên tắc”. Trường hợp g (h), ng
(h), cũng là một lệ ngoại. Hiện
tượng thêm h trước các nguyên âm E, Ê, I, là ảnh
hưởng của lối chính tả Latin chứ không có
lí do tự nội thân tiếng Việt. Âm /h/
trong trường hợp này không có cơ sở vững
chắc như kh, ph, th. Hiện tượng GI được
nhắc nhở trên đây cũng là một trường
hợp đi lạc ra ngoài nguyên tắc âm vị học
nữa. GI là cách chính tả của tiếng Ư,
mượn để chỉ một âm tắc xát ở
vào thời de Rhodes. GI, như vậy, chỉ là
một kí hiệu chỉ một âm đầu, kết
hợp với một nguyên âm nào đó mới thành một
tiếng: gi-à, gi-ỏ, gi-ẻ, gi-ết. Thế
nhưng khi ghép với nguyên âm i, GI lại mất
I: g (i) –I > gi. Đây là sự vi
phạm nguyên tắc âm vị học, v́ g(i) giờ
đây đồng hoá với một âm khác là g/ g(h)
nhưng lại đọc khác hoàn toàn. Cũng theo qui ước âm vị
học, tất cả các nguyên âm đều
được phát âm ở bậc thang âm ngang: a, i, o, u…
đều đọc là /a/, /i/, /o/, /u/. Nhưng khi
đọc đến những nguyên âm ngắn của a
và ơ, người ta phát âm thành một âm có bậc
thang âm rất cao, ở bậc dấu sắc / ’/.
Sự lẫn lộn nhỏ này đă dẫn đến
một nhầm lẫn lớn khác: làm mờ sự
đối xứng giữa nguyên âm dài và nguyên âm ngắn
ở tiếng Việt. Nói cách khác, ă và a
không phải là hai âm khác nhau mà chỉ là một âm dài và
một âm ngắn mà thôi, tương tự như cặp ơ
và â vậy. Có nhận ra sự đối
lập này mới cắt nghĩa thấu đáo tại
sao có một sự phân bố đồng đều
giữa chúng khi kết hợp với các âm cuối y,u,ch,
nh. Theo cách viết hiện nay th́ ta nghĩ
những nguyên âm trong ay, au, ach, anh là những nguyên âm
dài, nhưng thực ra đó chính là những âm a
ngắn, c̣n những âm a dài thường phân bố
kết hợp với những âm cuối trên dưới
dạng viết sau: ai, ao, ac, ang. Trong cách viết chữ quốc ngữ
hiện nay, có hiện tượng bất nhất khi
viết i và y. De Rhodes ghi chú như sau
về cách viết hai chữ này ở thời ông:
“Tiếng xứ này chỉ dùng chữ I làm nguyên âm, v́
chữ I phụ âm được thay bằng chữ G
(sic). Muốn tránh lẫn lộn, ta dùng I ở giữa hay
ở cuối tiếng: biết, bĩ.
Cũng cần chú ư là ta dùng âm Y ở cuối tiếng khi
nào có nguyên âm kép (sic) cần phải đọc tách
biệt: Eùy (ấy), nhưng phải dùng I khi nào
nguyên âm kép không đọc tách rời, ví dụ chữ Ai.
Để tránh dùng nhiều dấu hiệu trên một
chữ, ta không đánh hai dấu chấm trên chữ
I. Chỉ cần nhớ với nhau một lần
rằng viết Y ở sau một nguyên âm không phải
để đọc thêm một vần tách biệt mà
chỉ có ư phân biệt vần như trong cây và cai.
Ta cũng dùng Y trước một số nguyên âm nhưng
cũng không xem là phụ âm bao giờ, chẳng hạn ưeo
(tức là yếu), ỷa, (tức là ỉa).”
[13] Nguyên tắc này được áp
dụng chặt chẽ trong bản thảo của Bento
Thiện (1659) cho đến từ điển của
Hội Khai Trí Tiến Đức (1931). Nhưng đến ngày nay th́ sách báo
tiếng Việt có nhiều kiểu viết bất
nhất về chữ I và Y. Dường như
người viết chỉ theo trực cảm hoặc
theo thói quen (có thể đúng mà cũng có thể sai), nên
chỉ có hiện tượng tên người là Sĩ được
viết thành Sỹ hoặc ngược lại, tị
(nạn) lại cũng có thể viết thành tỵ (nạn)…
Dựa theo Hán Việt Từ Điển của
Đào Duy Anh, chúng tôi nhận thấy có thể ta có
những trường hợp sau đây viết lẫn
lộn I thành Y sau h, k, l, m, qu, t.
Nếu bảo rằng phải viết tiếng hán
việt theo cách khác, e là không chính đáng, v́ chữ
viết kí âm không bao giờ “chia hán/nôm” mà chỉ quan tâm
đến việc ghi âm sao cho đúng như khi
người nói phát âm ra. V́ thế, không có lí do ǵ
để phân biệt mỹ (thuật) với (bánh) ḿ,
hoặc là phân biệt (biệt) ly với li ti,
lấy lí do là một bên viết với y v́ là từ
hán việt, bên kia viết với i v́ là một
từ nôm na. Vả lại, thật là khó chấp
nhận sự kiện cho rằng có thể cả hai cách
viết i và y đi kèm với những âm
khởi đầu m, t, l, k, qu, h, đều
được coi là đúng, là hợp cách như một
tác giả đă ghi nhận. [14] Thật ra, khi chúng ta
viết Lư, Kỹ, Mỹ với y, ta đă
chọn thói quen và trực cảm chủ quan hơn là
dựa trên chính dữ kiện ngôn ngữ để
viết chữ quốc ngữ. Có lẽ v́ thế mà Việt
Hiện tượng bất nhất nói
trên đă diễn ra từ thời ḱ nào? De Rhodes và
những nhà sáng chế chữ quốc ngữ xem ra
rất tách bạch về cách dùng chữ này – như
lời dẫn trong sách của ông đă cho thấy. Sang
thế kỉ XVIII, quyển tự vị An Nam-La Tinh (Dictionarium
Abamitico Latinum) soạn xong năm 1773, cũng không
thấy có t́nh trạng nước đôi trong một
số cách viết chữ i và y. Hiện
tượng viết thông nhau giữa i và y chỉ thấy
xuất hiện vào thế kỉ XIX, khi có hàng loạt
những quyển tự vị soan và in tại nhiều
địa phương khác nhau, do những nhà biên soạn
không chuyên về ngôn ngữ. [15] Đến những
từ điển Huiønh Tịnh Của (1895-6) hay là
của Génibrel (1898) th́ đă có dấu hiệu của
sự phân hóa giữa hai qui tắc: các ông vẫn viết
I ở phần chính: hùinh, qúnh, hụich, huiên,
nhưng cũng có những chỗ viết huyền,
truyền, khuyên, ly… Đến những năm đầu
thế kỉ thứ XX th́ sự lẫn lộn đă
trở nên phổ biến: hai quyển từ điển
cùng in năm 1931 mà lại theo hai nguyên tắc chính tả
khác nhau: Đào Duy Anh soạn Hán Vịêt Từ
Điển th́ chuộng Y khi viết với h,
k, l, m, qu, t. Trong khi đó th́ Việt Nam Tự
Điển của Khai Trí Tiến Đức th́
nhất loạt viết i trong các từ đi đầu
với h, k, l, m, qu, t. Uy tín của hai bộ từ
điển đă kéo theo sự phân hóa về chính tả
sau đó. Trong nhà trường miền Nam
trước 1975, quy định chính tả đă
được minh thị trong các ấn bản
Chương Tŕnh Trung Học do Bộ Quốc Gia Giáo
Dục ấn hành hằng năm, rằng phải theo quy
tắc chính tả của Việt Nam Tự Điển.
Tuy thế, dường như nhà trường phổ
thông không thiết tha ǵ với chính tả, và dường
như không mấy ai để ư quyển từ
điển này đă viết chữ quốc ngữ ra
sao! Có người c̣n nói liều rằng quyển
từ điển này đă lạc hậu rồi.
Phải, sẽ phải quên nó đi thôi nếu quả
thật là nó đă bị vượt bỏ. Nhưng
mà cho đến nay vẫn chưa có bộ từ
điển nào thật có phương pháp nghiêm túc trong
lối chọn mục từ, giải nghĩa, và dẫn
chứng văn liệu chính xác như nó. Đó là
điều đáng buồn chung cho những ai thích sự
tiến bộ. (Chúng tôi không nghĩ là chiều dày
của bộ từ điển Lê Văn Đức
đă đủ để được tôn là bộ
từ điển có giá trị về mặt phương
pháp cùng nội dung biên soạn.) Trở lại hiện tượng I và
Y, có thể nói là hiện tượng lẫn lộn này
tương đối mới mẻ so với lịch
sử 300 năm của chữ quốc ngữ. Có
thể tạm xác định mốc những năm
cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ
XX. Vả chăng, bản đề nghị của Uỷ
Ban Cải Cách Chữ Quốc Ngữ (1902) đă xác
nhận giả thuyết này. Một hiện tượng khác cũng
cần để ư là tiếng Việt có đến 4 con
chữ dùng để viết hai âm: đó là âm /w/
được ghi bằng o và u, hoà/hào,
mùa/màu; âm /y/ được ghi bằng i và y:
mai/may, mới/mấy… Lại một lần nữa
nguyên tắc âm vị học bị vi phạm. Hăy lấy
cặp mai/may làm tỉ dụ: sự khác
biệt giữa hai tiếng này không nằm ở i/y
mà chính là ở hai âm a. Một đàng, a
được đọc dài, một đàng âm a đọc
ngắn; vậy để cho chính xác, phải ghi hai
âm a đó thế nào cho khác nhau. Nhưng thói quen
đă ghi như vậy. Tưởng cũng cần nhắc
lại hiện tượng h ghi trong nh và ch.
Hai phụ âm nh và ch chỉ là mượn
kiểu ghi âm của tiếng Bồ; hoàn toàn không có
hiện tượng bật hơi thở như trong
bộ ba ph, kh, th. Mặc dù ngày nay h đă
mất tính cách bật hơi trong ph và giảm
nhẹ trong kh, nhưng chữ quốc ngữ
vẫn không v́ thế mà đổi theo. Trở lên là những vấn đề
đặt ra cho người Việt khi suy nghĩ về
việc giảng dạy tiếng Việt cho con em ở
một thời ḱ mà những hiểu biết về ngôn
ngữ cho phép chúng ta rút ngắn những kiểu làm
việc, giảm thiểu những thừa thăi vô ích.
Trong ư nghĩa đó, bao nhiêu cố gắng của các
thế hệ nghiên cứu tiếng Việt không có
nghĩa là làm phiền toái sự việc, mà ngược
lại là những nỗ lực để nh́n nhận
sự vật một cách chính xác hơn. Thế
tại sao, từ 1902 đến nay, những gắng công
của những thế hệ nghiên cứu đều
chưa thành công trong việc làm cho chữ quốc ngữ
thêm chính xác? Chúng tôi không nghĩ là trách nhiệm
đơn thuần thuộc về họ, những nhà
chuyên mônvề ngữ học. Một cuộc vận
động xă hội nào cũng cần sự tham gia
của ba yếu tố: chỉ đạo, công chúng và
những cơ quan chức năng. Để vận
động cho một cuộc cải cách ngôn ngữ th́
cần có những nhà chuyên môn ngữ học đề
đạt dự án, và nhà nước huy động các
cơ quan chức năng (nhà trường và hệ
thống truyên thông) để thâm nhập quần
chúng. Nhà trường Việt nam trước đây
đă không làm đúng phần việc của nó trong sự
ǵn giữ chữ quốc ngữ được ngày
một tinh giản. Sách báo trong xă hội cũng không
thật sự quan tâm và hiểu thấu vấn
đề, mà chỉ nối nhau theo thói quen. 3. Bài viết này không đặt vấn đề
sửa đổi chữ quốc ngữ. Việc đó
để dành cho những cơ quan có thẩm quyền
về sau này. Dụng ư duy nhất của
người viết là phân tích một vài khía cạnh
của chữ quốc ngữ để mong nhận ra
dáng vẻ sống động của hệ thống
chữ viết latin này trong dọc dài lịch sử
chữ viết dân tộc. Chữ quốc ngữ đă
trải qua nhiều thay đổi từ nhiều thế
hệ, do công phu của những người sử
dụng ban đầu – mà không nghi ngờ ǵ nữa –
đều là những người có tŕnh độ
hiểu biết rành rẽ về nó. Trong t́nh trạng hiện nay, thiếu
một tổ chức thẩm quyền, việc sử
dụng chữ viết đang chịu một thách
đố của qui luật phát triển tự nhiên.
Dạy tiếng mẹ đẻ trong hoàn cảnh đó
thật là phức tạp. Những ghi chú trên đây
chỉ nhằm t́m một chỗ dựa cho việc
soạn thảo bài giảng tiếng Việt cho thế
hệ trẻ mà không vương vấn giữa những
phiền toái không cần thiết – trong nhiều
trường hợp chỉ là làm mất vẻ trong sáng
của tiếng nói và chữ viết. Có thể những
phân tích này đi ngược chiều với cái thói quen
của chính người viết và những người
ở cùng thế hệ với hắn. Nhưng mà,
đối với người t́m học, không thể
không nói ra những ǵ ḿnh hiểu và tin là đúng. _______________________________ [1] Theo Lê Trọng
Khánh (1986) Sự h́nh thành và phát triển chữ Việt
cổ. Hà Nội: nxb. Viện Văn Hoá, tr. 21 [2] Đỗ Quang
Chính (1972) Lịch sử chữ quốc ngữ.
1620-1659). Ra Khơi, tr. 24-25 [3] Charles Maybon (1920) Histoire moderne
du paye d’Annam (1592-1820) [4] L. Finot (1908). Trích theo Nguyễn
Bạt Tuỵ (1949), Chữ và vần Việt khoa
học. [5] A. Chéon
(1905) "Notes sur les Muong de la province de Son tay". BEFFEO. t.
V, p.328 [6] Compte-rendu du premier Congrès international
des Etudes d'Etrême-Orient. BEFEO, t.III, (1903) tr. 126-127. Cũng có
thể xem tóm tắt bản đề nghị này trong:
Nguyễn Bạt Tuỵ (1949), sđd, tr 10-12. [7] L. Cadière (1906) "Le question du
quốc ngữ", báo L'Avenir du Tonkin. từ 24
Septembre đến 10 Octobre 1906. [8] Alexandre de Rhodes (1651) Dictionatium
Annamiticum Lusitanum, et Latinum. (Bản
in lại của Nxb. KHXH, Tp.HCM, 1991. tr. 6 [9] A. De
Rhodes, sđd, tr. 8-9. [10] A. De
Rhodea, sđd, tr. 6. [11] H.
Maspéro(1912) "Etudes sur la phonétiquehistorique de la langue Annamite
: les initiales". BEFFEO, t.XII, n.1, p. 46. [12] A. De
Rhodes, sđd, tr. 6. [13] A. De
Rhodes, sđd, tr. 7. [14] L. Thompson (1965) A Vietnamese Grammar. [15] Một vài thí
dụ: Legrand De La Liraye (1874) Dictionnaire élémentaire
annamite Francaise. Nguồn: Mạng
Trung Tâm Văn Hóa Nguyễn Trường Tộ http://ttntt.free.fr ( http://ttntt.free.fr/archive/dxkienchuquocngu.html ) |
|
|