THAM LUẬN CỦA GIÁO
SƯ HOÀNG TỤY (Đọc tại Hội nghị bàn về
“Vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ”
được tổ chức tại Hà Nội, năm
1960. Lúc ấy, GS. Hoàng Tụy phụ trách ngành Toán,
trường Đại học Tổng hợp Hà Nội) |
|
Vài nét về GS. Hoàng Tụy -
Từ năm 1961-1968, là chủ nhiệm khoa toán của
Đại học Tổng hợp Hà Nội, là viện
trưởng Viện Toán học VN từ năm 1980-1989. -
Năm 1964, phát minh ra phương pháp "lát cắt
Tụy" (Tuys cut), và được coi là cột
mốc đầu tiên đánh dấu sự ra đời
của một chuyên ngành toán học mới: lư thuyết
tối ưu toàn cục (global optimization). -
Tháng 8-1997, Viện Công nghệ Linkôping (Thụy
Điển) đă tổ chức một hội thảo
quốc tế với chủ đề "T́m tối
ưu từ địa phương đến toàn
cục”, được tổ chức để tôn vinh
GS Hoàng Tụy, "người đă có công tŕnh tiên phong
trong lĩnh vực tối ưu toàn cục và qui hoạch
toán học tổng quát”, nhân dịp ông tṛn 70 tuổi. -
Tháng 12-2007, một hội nghị quốc tế về
"Qui hoạch không lồi" được tổ
chức ở Rouen, Pháp để ghi nhận những
đóng góp tiên phong của GS Hoàng Tụy cho lĩnh vực
này nói riêng, và cho ngành tối ưu toàn cục nói chung nhân
dịp ông tṛn 80 tuổi. Mục
đích cải tiến chữ quốc ngữ là làm cho nó
được khoa học hơn, tiện lợi hơn.
Ở đây, tôi xin đứng về phương
diện một người làm công tác khoa học tự
nhiên góp vài ư kiến nhỏ về vấn đề này. Chữ viết là
một hệ thống tín hiệu ghi lại ngôn ngữ
để truyền đạt tư tưởng. Về
phương diện đó, ta có thể xem nó là một mă
(code). V́ vậy, vấn đề cải tiến chữ
quốc ngữ có liên quan nhiều đến ngành thông tin
học là một ngành khoa học hiện nay đang phát
triển rất nhanh. Ở các nước, đă có
nhiều công tŕnh nghiên cứu chữ viết dựa trên
những thành tựu thông tin học hiện đại.
Tôi nghĩ rằng những công tŕnh nghiên cứu theo
hướng đó cũng sẽ rất bổ ích cho chúng ta. Nguyên tắc xây
dựng mă là phải tiết kiệm tín hiệu.
Cần bao nhiêu tín hiệu th́ chỉ sử dụng
bấy nhiêu thôi, nói chung càng ít càng tốt. Thực tế,
không có lối chữ viết nào trên thế giới
thực hiện được trịệt để
nguyên tắc này. Chẳng hạn,
người ta đă chứng minh rằng quá 50% tổng
số con chữ trong một bài văn viết bằng
chữ Nga, Anh, Pháp hay Đức là thừa, nghĩa là có
thể bỏ đi mà không hại ǵ đến ư nghĩa.
Tỉ số con số thừa đó gọi là thặng
dư. Thặng dư của mỗi một lối
chữ viết một khác, thặng dư cao có nghĩa là
có nhiều chỗ chưa hợp lư. Ví dụ trong chữ
Anh, chữ Pháp, và cả chữ quốc ngữ của ta
nữa, nhóm chữ phụ âm “qu” thừa con chữ u
; trong chữ quốc ngữ, các nhóm chữ phụ âm gh,
ngh thừa con chữ h, các vần ức, ác,
ấc, v.v… thừa dấu. Khi cải tiến chữ
viết, nên cố gắng làm giảm thặng dư
đó (¹) . Theo sự
nghiên cứu khoa ngôn ngữ học toán học th́ thặng
dư của một thứ chữ viết phụ thuộc
hai số: 1.
Số H, gọi là en-trô-pi hay lượng
thông tin trung b́nh của mỗi con chữ ; 2.
Số N, chỉ tổng số con chữ
trong bộ chữ cái (alphabet) , H càng
nhỏ th́ thặng dư càng to, có nghĩa là lối viết
chữ ấy ít tiết kiệm, chưa được
khoa học. N Trong chữ Nga N = 31, chữ Anh, Pháp, Đức:
N vào khoảng 26, 27, chữ quốc ngữ: N = 34 (²).
C̣n H th́ khó tính hơn. Nếu không kể sự tương
quan giữa các con chữ trong một bài văn, th́ giá trị
của H trong các chũ viết là như sau: Nga 1,242, Pháp
1,200, Đức 1,233. Về chữ quốc ngữ, sự
tính toán sơ bộ cho biết H vào khoảng 1,227. Như
vậy H/N của ta
nhỏ hơn H/N trong các chữ viết trên, nghĩa là về phương diện
này chữ quốc ngữ chưa được tiết kiệm.
Điều đó h́nh như trái với quan niệm thông
thường của chúng ta, nên cần được giải
thích. Do chữ quốc ngữ là lối viết thuần
túy ghi âm, nên nó giản tiện, dễ học, dễ nhớ,
song cách ghi âm của nó c̣n nhiều thiếu sót khiến cho
thặng dư cao lên. Cách ghép các con chữ trong chữ quốc
ngữ rất chặt, nếu biết một con chữ
th́ nhiều khi con chữ sau chỉ có thể chọn trong
một số hạn chế con chữ nào đó. Ví dụ
sau con chữ r, chỉ có
thể là một trong các con chữ a, ă,
â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, trong khi đó th́ ở chữ Anh, sau r có thể ghép hầu hết
mọi con chữ. V́ lẽ đó, “độ bất định”
trung b́nh của các con chữ trong chữ quốc ngữ bị
hạ thấp, lượng thông tin trung b́nh H kém đi. Như vậy có hai hướng làm tăng H_ để do đó giảm thặng
dư, là: N 1)
Giảm
N, tức giảm số con chữ trong bộ chữ cái. 2)
Tăng
H, bằng cách bỏ các kư hiệu thừa và làm cho các con
chữ kết hợp tự do hơn, bớt ràng buộc
lẫn nhau. Ngoài sự giảm thặng dư, c̣n
phải chú ư nguyên tắc
tần số, tức là: âm nào hay dùng th́ cách ghi âm phải
gọn, càng hay dùng, càng phải gọn. Chữ quốc ngữ
c̣n nhiều thiếu sót về phương diện này. Như
âm “uyên” rất hay dùng
(trong: huyên, tuyên, chuyện, truyền, khuyên, xuyên, suyễn,
v.v…) th́ ghi dài, trái lại âm “oe”
mặc dầu ít gặp, lại ghi ngắn hơn. Con chữ
ê dùng nhiều (tần số
0,030, nghĩa là trung b́nh gặp 30 lần trong 1000 con chữ)
th́ lại có dấu ^ ,
trong lúc con chữ e dùng ít
(tần số 0,009) th́ lại không có dấu. Với đ (tần số 0,017) và d (tần số 0,006) (³) cũng
vậy. Đó là sơ
lược một số vấn đề mà chúng tôi
nghĩ cần chú ư khi nghiên cứu cải tiến chữ
quốc ngữ. Trong những bản tham luận
trước, khi bênh vực cho lối viết này hay
lối viết kia, một số vị đă gián tiếp
hay trực tiếp nêu ra lư do tiết kiệm. Tôi nghĩ
rằng điều đó cũng tất nhiên thôi, v́
một lối chữ không tiết kiệm nhất định
chưa thể xem là hoàn hảo được. Bây giờ tôi xin dựa
trên những nguyên tắcchung ở trên để phát biểu
một số ư kiến cụ thể. Xin nói rằng không
thể ngay một lúc mà giải quyết được mọi
điều không hợp lư ở lối viết cũ, nhưng
mỗi lần cải tiến cần nh́n xa hơn, và không
v́ lẽ trước mắt chỉ có thể giải quyết
một số điểm cấp bách mà không đặt và
nghiên cứu vấn đề một cách toàn diện.
Trong những ư kiến dưới đây, tôi xin cố gắng
đứng ở quan điểm đó. 1. Vấn đề các dấu
thanh: Các dấu thanh là một
sự phiền phức rất lớn trong tiếng Việt.
Các dấu ấy làm ta không viết nhanh được,
làm tốn giấy quá nhiều (v́ khoảng cách các ḍng phải
rộng ra), và cũng làm kém mỹ thuật các trang sách in.
Tôi đề nghị tiến tới thay các dấu thanh bằng
những kư hiệu đặt ở sau, chẳng hạn
các kư hiệu: ﻻ,
כ, э, є, Ч, ℩, ~ . Như chú trọng th́ viết chu
ﻻtrongэ , nữa
viết nua~ . Dấu để
sau như vậy c̣n có tác dụng ngăn hai âm tiết, nên
khi viết liền một số từ khỏi phải
nhầm lẫn (nhưng nếu âm tiết trước viết
không có dấu, th́ khi viết liền hai âm tiết cần
dùng một kư hiệu, ví dụ b,
để ngăn cách). Ngay trước
mắt, đề nghị bỏ dấu sắc trong những
trường hợp tự nó đă rơ (như trong các vần:
uc, ut, up, ưc, ưt, ưp, ac, ach, ap, ăc, âc, ât, âp, ec,
et, ết, êch, êp, ic, it, ich, ip, v.v…). 2. Vấn đề các dấu phụ: Cũng nên t́m các kư hiệu hay
các con chữ đơn giản thay cho các con chữ ă, â, ô, ơ, ư. Ví dụ
thay ư bằng y (hay Ы ). Điều cần hơn nữa là nên
thay ê bằng e, thay e bằng một kư hiệu khác, như ε (hay є) , thay đ bằng d, thay d bằng một
con chữ khác. Ví dụ điện
sẽ viết là diẹn.
Không nên dùng các con chữ ü,
î, û, v.v…, v́ như vậy
là thêm dấu phụ. 3.
Vấn đề một số con chữ như k, c, q, s,
x, …: Nên thay k bằng c (v́ tần
số của c bằng
0,017, gần gấp 7 lần tần số của k (0.007), nếu thay c bằng k th́ sẽ đảo lộn quá nhiều, hơn
nữa c viết dễ hơn
k). Kh sẽ thay bằng k
(bớt được con chữ h). Theo ư tôi, nên giữ con chữ q (ta đánh vần “quen”: quờ-en-quen), nhưng
bỏ con chữ u sau q, nghĩa là quen, qui, quanh quẩn sẽ viết qen, qi, qanh qẩn. Nên nghiên cứu thay
một số vần như uy bằng một con chữ
thôi. Chẳng hạn thay uy bằng w hay y
(nếu y không dùng để thay ư), để
có thể viết uyên thành wen (nếu thay cả
ê bằng e). Như vậy sẽ có tác dụng
làm cho các chữ bớt ràng buộc với nhau, do đó
giảm bớt thặng dư. Ngoài ra, cũng nên
dần dần thay x bằng s, và ngược
lại s bằng x, để phù hợp hơn
với cách dùng con chữ trong tiếng la-tinh (như
Sta-lin, sinus có thể viết y như vậy). 4. Vấn
đề thêm vần mới: Tôi nghĩ rằng nên mạnh dạn
thêm một số vần mới. Không những nên thêm các
nhóm phụ âm đầu như st, sm, sn, br, cr, gr. bl, cl,
v.v…, mà nên thêm cả vần cuối như as, ad, od, ah,
ol, el, v.v… Nhưng tất nhiên cũng không nên lạm dụng.
Như thế được cái lợi là dễ dịch
âm các từ ngoại quốc (chung và riêng), nhất là những
danh từ có tính chất quốc tế. Như acide
sulfurique viết axit sulfuric, th́ giữ được
cái dạng chữ quốc tế. Điều này rất tiện
lợi cho những người nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật, v́ thường xuyên họ phải tra cứu những
tài liệu nước ngoài. Về phương diện tiết
kiệm, nó cũng làm cho phạm vi kết hợp các con chữ
được rộng răi hơn. Có thể sợ rằng
nhân dân sẽ khó dùng các vần ấy, nhưng theo ư tôi,
những danh từ khoa học kỹ thuật chỉ
đụng chạm tới những người có
một tŕnh độ văn hóa nhất định. Vả
lại, cũng có thể dùng những biện pháp
chuyển tiếp, như lúc đầu có thể dùng
dấu phết, theo đề nghị của nhiều
người (đáng lẽ al th́ viết al’, dấu
phết thay cho chữ ơ đọc rất khẽ). Dù
sao về vấn đề này ta cũng không nên câu nệ
quá. 5. Vấn
đề viết liền: Tôi rất hoan nghênh chủ trương
viết liền, v́ điều đó sẽ tăng thêm sự
sáng sủa và chính xác trong câu viết _ một điều
rất cần cho những người làm công tác khoa học,
kỹ thuật. Ví dụ : “một vô cùng lớn”, “một
vô cùng bé” là những danh từ thường gặp trong
toán học, nếu viết liền thành “mộtvôcùnglớn”,
“mộtvôcùngbé” th́ sẽ dễ hiểu hơn. Trên đây vài ư kiến
nhỏ của chúng tôi, để góp vào một công tác rất
lớn, rất quan trọng, là việc cải tiến
chữ quốc ngữ. Tôi chỉ mong qua bản tham
luận này nhấn mạnh thêm một điều đă
nói trong báo cáo: cần giải quyêt việc cải tiến
chữ quốc ngữ trên cơ sở khoa học. Không
nên dựa vào cảm tính, không nên quá dè dặt, câu nệ,
nhưng cũng cần thận trọng. Tôi không có ư đề
nghị thực hiện ngay những điều đă nêu
lên ở trên v́ trong thực tế có nhiều vấn
đề phức tạp, nhưng tôi nghĩ rằng cũng
có những cái có thể và cần làm càng sớm càng tốt. (Trích sách Vấn đề
cải tiến chữ quốc ngữ , Nxb. Văn Hoá,
Hà Nội, 1961, tr. 331 – 336). ______________ (¹) Ở đây không nói tới một
tác động tích cực nhất định của thặng
dư gọi là tác dụng chống sự “xuyên tạc
thông tin”. (²) a, ă,
â, kể là 3 con chữ; các dấu thanh cũng kể như
những con chữ. (³) Những tần số này chúng tôi
(GS. Hoàng Tụy) đă xác định trong một thí
nghiệm với ngót hai vạn chữ. |
|
Email:
Trần Tư B́nh
|